DR TRẦN-ĐĂNG HỒNG & KIM-THU
Reading, UK

Miền Tây Nam Bộ

15/6/2020


NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG MIỀN  TÂY NAM BỘ
Trần-Đăng-Hồng
  
Tuy sinh ra ở xứ “Nha Trang là miền quê hương cát trắng” (nhạc sĩ Minh Kỳ), nhưng tôi đã rời hẳn Nha Trang sau khi đậu Tú Tài, rồi sống 6 năm ở Sài Gòn khi vào đại học, rồi 10 năm làm việc ở Cần Thơ, và cuối cùng 46 năm ở Anh quốc.

Thú thật tôi không có nhiều kỷ niệm ở nơi “chôn nhau cắt rún” của mình, ngoài những kỷ niệm vụn vặt của thời thơ ấu, mà qua ký ức mơ hồ còn vươn vấn lại khi vào tuổi xế chiều, tôi đã cố gắng ghi lại vài kỷ niệm về quê cha đất tổ như kỷ niệm với ông bà nội ngoại, về làng tôi của 60-70 năm về trước trong thời kỳ loạn lạc chiến tranh, về những di tích của dân Chăm còn sót lại trong làng và những truyền thuyết liên hệ với người Chăm trên quê hương tôi.
   
Ngược lại, trong 10 năm sống ở Cần Thơ, lúc tuổi vừa trưởng thành, đầu óc còn mang đầy lý tưởng, với lối sống phiêu bạt, mạo hiểm và ước mơ khám phá, tôi đã có rất nhiều kỷ niệm sống động không bao giờ quên. Tôi đã mê vùng đất hiền hòa, con người đầy nhân hậu, hiếu khách, dễ nổi cộc nhưng cũng dễ bao dung, thật thà chân chất “ruột để ngoài da”. Thú thật tôi đã bị “Nam Kỳ hóa” và bản chất Miền Trung đã bị bào mòn dần trong thời kỳ sống ở vùng tây Nam Bộ này.
Sở dỉ tôi có nhiều kỷ niệm về Miền Tây là vì trong 10 năm sống ở Cần Thơ tôi có rất nhiều dịp đi đây đi đó, Trong thời kỳ còn độc thân tôi rất đam mê du lịch khám phá vùng đồng quê đầy xa lạ.           
Chương trình Chí Nguyện Nông Lâm Súc do Nha Học Vụ chỉ định tôi thành lập và lãnh đạo, và anh bạn chí thân Jerry Kliever của IVS (International Voluntary Service) Hoa Kỳ, đã giúp tôi toại nguyện một phần, nhờ đó tôi đi và biết nhiều về các vùng Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Đốc, Bến Tre, Vĩnh Long. Tôi đã từng cùng Đoàn Chí Nguyện NLS dùng ghe đi cứu trợ lũ lụt năm 1966 tại vùng biên giới Tịnh Biên, hay cứu Cồn Sơn không bị ngập lụt vì vỡ đê bao ngạn. Jerry cũng cùng tôi đi trực thăng vào vùng Đồng Tháp, Mộc Hóa, Bạc Liêu hay bay về Sài Gòn tham dự các buổi họp.            
Ngoài ra tôi còn nhiều cơ hội khác nữa để đi khắp các tỉnh Miền Tây. Bởi vì các trưởng ty ngành canh nông, chăn nuôi thú y ngư nghiệp đều là những đồng môn quen thân, thuộc khóa đàn anh hay đàn em. Hàng năm, tôi đều có tổ chức họp mặt các bạn đồng môn chuyên viên nông nghiệp ở 16 tỉnh Miền Tây tại trường trung học NLS Cần Thơ hay sau này tại trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Viện Đại Học Cần Thơ, vì vào thời đó tôi và anh hiệu trưởng Nguyễn Hoàng Sơn thay phiên làm Trưởng Chi Nhánh Hội Chuyên Viên Nông Nghiệp Miền Tây. Chính vì vậy tôi cũng thường đến các tỉnh này thăm viếng bạn bè.

Sau khi lập gia đình, tôi lại còn đi nhiều hơn nữa, vì công vụ chứ không phải du lịch. Đây là thời kỳ tôi làm Thanh Tra Phụ Trách Chương Trình Phát Triển Lúa Thần Nông ở 16 tỉnh Miền Tây, vào thời GS Tôn Thất Trình làm Tổng Trưởng Bộ Nông Nghiệp (1973-1975). Tuy thời gian phục vụ ngắn ngủi, khoảng 6 tháng, nhưng tôi đi các tỉnh rất nhiều, bằng xe hơi công vụ do tài xé lái, hay bằng trực thăng. Phải nói là thời gian công vụ này rất nguy hiểm vì tình trạng chiến tranh đang cao điểm trước khi Miền Nam thất thủ.                     
Cung đường tôi thường đi nhất là Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá. Đây là cung đường có nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhất. Tôi thường đến đây thăm viếng hay công tác nghiên cứu về giống lúa chịu mặn, giống “Xa quay” và thường ở đêm tại nhà anh trưởng ty Nông nghiệp, KS NLA vốn là bạn thân.                       
Khoảng 1966, tôi cùng anh Nguyễn Văn Thước, Lê Hiền Lương, và Jerry Kliever dẫn đoàn công tác Chí Nguyện gồm trên 50 học viên đến cắm trại trong 3 ngày ở Rạch Giá, ngủ trong một ngôi chùa Miên, và ăn ở quán cơm xã hội “Gió Ngàn Phương”.            
 
Sau này, khoảng 1973 tôi và ông CVK, phụ tá của tôi, lái xe vào vùng Tắc Cậu, thuộc rừng U Minh để khảo sát, mà trước đó ít năm tôi có lái xe Lambretta vào vùng này. Trong chuyến đi 1974 này, chúng tôi bị “bắn sẻ” từ bên trong rừng, may mắn chạy thoát được.

Cũng trong cung đường này, năm 1972 tôi theo ông KS Trưởng Khu Nam Công Chánh trong một chuyến du lịch Hà Tiên.  
Jerry và tôi cũng thường lái xe đến Châu Dốc để đi thăm các hoạt động chí nguyện trên cung đường Cần Thơ, Thốt Nốt, Long Xuyên, Châu Đốc, Châu Phú.

Năm 1971, Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp được Ủy Ban Quốc Tế Mekong trụ sở ở Bangkok giao nhiệm vụ khảo sát và thăm dò (survey) về xử dụng đất và đời sống người dân ở Khu Định Cư Cái Sắn. Ở đây có tổng cộng khoảng 40 con kinh đào, bề ngang rộng 6 mét và sâu 4 mét. Bên mỗi bờ kênh, sâu vào 20 mét là những căn nhà ở của dân chúng. Cộng chung tất cả các kênh gồm 8.086 lô đất. Mỗi lô đất dành cho một gia đình là 3 mẫu tây vừa là nhà ở và đất để trồng trọt. Mỗi lô đất rộng 30 mét tây chiều ngang và 1000 mét chiều dài. Tất cả sinh viên khóa 1, nhân viên giảng huấn của cả đại học được điều động tham gia cuộc khảo sát này, người đứng đầu tổ chức là anh Nguyễn Phú Thiện. Ban đêm chúng tôi ăn ở và sinh hoạt trong Nhà Thờ Cái Sắn, và ban ngày đi dọc theo kinh dài khoảng 2 cây số, vào từng nhà để hỏi, ghi chép trên giấy với nhiều câu hỏi đã in sẳn. Nhờ 1 tuần lặn lội như vậy, chúng tôi biết thêm về đời sống của người Bắc di cư vùng Cái Sắn. Người Bắc ở vùng này đều là tín đồ Thiên Chúa Giáo, mỗi kinh đều có một nhà thờ nhỏ cai quản bởi một linh mục, là vị lãnh đạo tinh thần ở đây. Muốn việc gì suông sẻ, phải gặp cha linh mục trước, chỉ một tiếng nói của ông, tín đồ tuân lệnh tuyệt đối. Công tác thăm dò của chúng tôi nhờ vậy rất suông sẻ và thành công theo ý muốn.

Đề cập đến tôn giáo, ở Miền Tây mà không am hiểu về đạo Hòa Hảo là một thiếu sót lớn. Khoảng 1969, tôi và anh Lê Hiền Lương được một tín đồ Hòa Hảo hướng dẫn đến Thánh Địa Hòa Hảo ở làng Hòa Hảo An Giang. Chúng tôi ở đây hai ngày một đêm và được gặp nhiều vị chức sắc. Nhờ đó tôi biết chút ít về đạo Hòa Hảo.

Nhân dịp đây cũng cần kể thêm về một người bạn Hòa Hảo rất đặc biệt đã mến mộ tôi. Đó là anh Bảy Thới Long, do các anh Cồn Sơn giới thiệu. Nguyên do là anh Út Lùn ở Cồn Sơn, một tín đồ Hòa Hảo, có nhả ý mời tôi đi ăn đám giỗ ở Thới Long, Bằng Tăng (thuộc quận Thốt Nốt, Cần Thơ). Anh dùng ghe gắn máy và chúng tôi đến Thới Long vào buổi chiều. Đám giỗ đã chấm dứt vào buổi trưa, nhưng chủ nhà dành thức ăn cho chúng tôi ăn nhậu suốt đêm. Tôi không biết tên thật của anh, chỉ quen gọi là “Anh Bảy (ở) Thới Long”. Anh lớn hơn tôi khoảng 20 tuổi, vốn là một cận vệ của ông Ba Cụt, tức tướng Lê Quang Vinh của lực lượng Hòa Hảo. Anh rất to con, lực lưỡng, xâm hình con rồng trên cả 2 tay. Nghe nói là anh có võ nghệ cao cường. Là bạn chí thân thời thơ ấu với Ba Cụt, cùng Ba Cụt học võ với võ sư Sáu Kim ở làng Hòa Hảo. Khi thành lập lực lượng quân sự, Ba Cụt chọn anh làm cận vệ thân tín. Trong khi lực lượng chánh của Hòa Hảo quy thuận chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì nhóm quân của Ba Cụt ly khai chống chính phủ. Ngày 13.4.1956, Tướng Lê Quang Vinh tức Ba Cụt bị một tiểu đội Bảo An phục kích bắt sống tại Chắc Cà Đao cách Long Xuyên 15 cây số cùng với 5 hộ vệ. Vào sáng ngày 13 tháng 7 năm 1956, Ba Cụt đã bị hành quyết bằng hình phạt chém đầu tại Cần Thơ, và 5 cận vệ, trong đó có anh Bảy Thới Long, chịu án 20 năm đày ra Côn Đảo. Khoảng năm 1964, anh được ân xá trở về Thới Long. Trong thời gian 8 năm lưu đày, anh thố lộ tâm sự với tôi, là anh đã ăn năn hối cải vì những tội ác anh đã gây ra trong thời gian cùng Ba Cụt hoành hành ở khắp tỉnh Cần Thơ. Từ đó anh tu theo phật giáo Hòa Hảo, thuộc kinh sách của Đức Thầy. Trong suốt một đêm dài, tôi chỉ lắng nghe anh tâm sự, tôi chỉ dám khơi động những kỷ niệm anh sống ở Côn Đảo. Tôi chỉ lắng nghe, không dám bình luận điều gì, nhất là về tôn giáo. Có lẻ mặc cảm vì thất học, võ biền, nay được một trí thức dạy đại học lắng nghe, anh mến mộ tôi lắm. Sáng hôm sau, trước khi bước xuống ghe từ giả, anh móc từ trong túi áo trao cho tôi một chiếc nhẫn. Anh nói đây là chiếc nhẫn anh làm từ xương hàm của cá mập khi anh còn ở Côn Đảo. Anh tặng tôi làm kỷ niệm, nói rằng dầu tôi có đi đâu, hễ nhìn thấy chiếc nhẫn này là hãy nhớ đến anh. Tôi đã thất hứa, tôi đã để chiếc nhẫn này ở lại VN và nay đã đánh mất. Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ đến anh.
             
Ngoài ra, cũng cần kể thêm một chuyến công tác nguy hiểm mà tôi bắt buộc phải đi cũng trên cung đường này. Đó là năm 1966, có cuộc bầu cử tổng thống. Thế giới e ngại là cuộc bầu cử ở các địa phương xa xôi sẽ bị gian lận, không được tự do bầu phiếu nên cử quan sát viên đến VN. Để chứng tỏ với quốc tế là việc bầu cử tự do, tỉnh Cần Thơ cử một số giáo chức vào các vùng xa để quan sát cuộc bầu cử. Tôi và anh Lê Hiền Lương bị đề cử đến quan sát tại một phòng phiếu ở một xã thuộc quận Cờ Đỏ. Là một vùng bất an, tôi không muốn đi, nhưng bắt buộc phải đi vì là công chức của tỉnh. Đến quận này vào thời đó chỉ bằng ghe chở hành khách có gắn động cơ. Khi đến quận, ai cũng phải trình diện với ông Quận Trưởng để nhận nhiệm vụ. May mắn cho tôi, ông quận trưởng là Thiếu Tá HC, là bậc đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh Nha Trang. Nhờ vậy, anh chuyển chúng tôi đến 1 xã tương đối an ninh nhất của quận, là Xã Thới Lai. Anh vỗ vai tôi “chú mày đến đó cũng phải cẩn thận”. Chúng tôi phải theo đoàn ghe của quận đi ngay trong đêm đó, để ngày hôm sau là ngày bầu cử. Vừa đến xã, vào khoảng 10 giờ tối, là được “chào đón” bởi một loạt đạn súng cối từ một xóm quê không xa lắm. Thế là đồn lính địa phương quân của xã bắn trả lại hàng loạt đạn súng cối. Tôi trốn trong hầm núp suốt đêm, khỏi ngủ. Cả ngày hôm sau, ngày bầu cử, thỉnh thoảng hai bên trao đổi nhau bằng pháo kích. Lần đầu tiên, không phải là quân nhân, tôi đã trải qua một ngày dài đầy lo sợ. Đến giờ chấm dứt bầu cử gần nửa đêm, nhân viên phòng phiếu mời chúng tôi ra xem họ niêm phong thùng phiếu, ký tên và yêu cầu chúng tôi đi theo để mang thùng phiếu về quận quan sát việc kiểm phiếu. Tôi từ chối đi theo, vì sợ bị phục kích trong đêm khuya. Đó là một chuyến đi đầy hải hùng của tôi.
Năm 1973, tôi dùng công xa đi quan sát lúa Thần Nông dọc cung đường Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cao Lãnh, cho tới Hồng Ngự. Trong dịp này, tôi có gặp lại một số cựu học viên NLS Cần Thơ, và cán bộ nông thôn mà tôi có dịp huấn luyện tại trường nls Cần Thơ vào khoảng 1965-1966.
Một cung đường dài khác là Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Tôi thường đi Sóc Trăng chơi bằng xe Lambretta của tôi vì có anh bạn cùng lớp KS NHL làm trưởng ty NN Sóc Trăng. Mỗi lần đến đây, tôi thường đến Phú Tâm thăm anh Ba Tam (Những Món Nợ Ân Tình). Một lần, tôi lái xe Lambretta chở đứa “em nuôi” Đặng Vĩnh Quãng (đã qua đời) đi chặng đường dài Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Ở Bạc Liêu có anh bạn trưởng ty VT, và Cà Mau có anh trưởng ty TTM. Vào thời này, đường còn xấu, nhưng có an ninh, chạy xe thông suốt. Mấy chục năm sau, năm 2014, chúng tôi đi trở lại cung đường này tới thành phố Cà Mau, rồi dùng tàu cao tốc đến tận Mũi Cà Mau (Tình người Miệt Thứ).
Năm 1974, tôi tháp tùng Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền địa là GS Tôn Thất Trình đi Bạc Liêu. Phái đoàn đi thăm viếng nhiều thí điểm phát triển nông nghiệp, vùng lúa nước mặn, vùng trồng nhản nổi tiếng (tôi không nhớ địa danh), vùng nuôi tôm thiên nhiên ở rừng ngập mặn, nơi có gió thổi vù vù, mà tôi nghĩ là nơi hiện có lấp hàng trăm máy turbin phong điện (windmill) ngày nay.
Tuy chỉ sống 10 năm tổng cộng ở Cần Thơ, nhưng tôi lại có rất nhiều kỷ niệm thân thương và sâu đậm ở khắp các tỉnh Miền Tây. Tới giờ này, thỉnh thoảng tôi có những giấc chiêm bao, trở về những nơi xa vời đó, gặp lại người này người nọ. Thức dậy lòng tiếc nuối về một thời xa xôi. Tôi không bao giờ quên những người bạn, có người tôi đã thọ ơn như các anh ở Cồn Sơn, hay có những người quen thân thiết trong nhiều năm, hay những bạn vừa quen biết một lần, như anh Bảy Thới Long.            
Reading, 15/6/2020.
 
Mời đọc giả thưởng thức một bản nhạc về Miền Tây, “Hành trinh trên đất phù sa”, nhạc sĩ Thanh Sơn, ca sĩ Hương Thủy và Tâm Đoan trình bày để hiểu tại sao “Cần Thơ đi dễ khó về” và “Đất lành chim đậu”.