Nha Trang ngày xưa
NHA TRANG NGÀY XƯA
Trần-Đăng Hồng
“Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Đêm đêm tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(Thơ Tú Xương)
Vạn vật đổi thay theo ngày tháng, nhưng lịch sử vẫn khắc ghi lại muôn đời. Địa danh Kauthara (tức Khánh Hoà bây giờ) đã được nhắc đến từ năm 90 trước tây lịch do các nhà hàng hải Ấn Độ giao thương với Trung Hoa qua hải trình từ Bengal, ghé Óc Eo (thủ đô nước Phù Nam, nay là Hà Tiên, Châu Đốc), Kauthara và Sông Hồng để mua tiêu và gia vị khác. Tại các hải cảng ở Kauthara, như Chutt (Chụt) và Kamran (Cam Ranh), thương gia Ấn mua trầm hương, ngà voi, sừng tê giác và đồi mồi để bán vào Trung Quốc. Thị trấn Ya-Tră, người Việt sau này (kể từ 1653) phát âm thành Nha Trang, được lịch sử Chăm nhắc đến vào năm 653 khi nử hoàng Jagadharma mất, dân Chăm lập đền thờ bà trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông, chính là tiền thân tháp Po Nagar – Tháp Bà - ở Cầu Xóm Bóng Nha Trang ngày nay (1).
Vào thế kỷ thứ 1 sau dương lịch, người bản xứ ở Nha Trang thuộc sắc tộc hải đảo Malayo-Polynesien, thuộc nước Phù Nam, theo văn hoá Ấn Độ, và đến khoảng thế kỳ thứ hai mới thuộc Chiêm Thành, tức Nam Chiêm (Panduranga) có lảnh thổ từ Khánh Hoà đến Bình Thuận.
Kể từ thế kỷ thứ hai, dưới thời Lâm Ấp (Chiêm Thành), hải cảng Chutt và Kamran là nơi thuyền buôn từ Ấn Độ tấp nập đến buôn bán, và truyền bá văn minh, văn hoá, tổ chức xả hội, kỷ thuật hàng hải, thương mại, nông nghiệp của Ấn Độ. Đạo Bà La Môn và Phật Giáo (Tiểu Thừa) thịnh hành ở Nam Chiêm. Như vậy, Phật Giáo đã có ở Nha Trang từ thế kỷ thứ 2, và từ Nha Trang Khánh Hoà, văn hoá Ấn Độ được truyền sang Bắc Chiêm, vốn bị ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa (nhà Hán).
Vào thế kỷ thứ bảy, nhiều thuyền buôn từ Trung Đông như Iraq, Oman, rồi Java và Mả Lai cặp bến Nha Trang và Cam Ranh để buôn bán và truyền đạo Hồi Giáo. Các nhà hàng hải Âu Châu như Hoà Lan, Bồ Đào Nha cặp bến Nha Trang buôn bán vào thế kỷ 15.
Như vậy, dưới thời Chiêm Thành, Nha Trang vừa là trung tâm tôn giáo (Tháp Bà), vừa là hải cảng phồn thịnh tấp nập thuyền buôn ngoại quốc, và cũng là căn cứ quân sự của Chiêm Thành. Nha Trang có một vị trí chiến lược quan trọng. Năm 774, quân Nam Đảo (Indonesia) đổ bộ vào Nha Trang đốt Tháp Po Nagar và cướp đi nhiều báu vật. Từ hải cảng Nha Trang và Cam Ranh, vào những năm 803 và 808, Chiêm Thành mang thuyền chiến tấn công vào Châu Hoan và Châu Ái của Đại Việt, rồi đem thuỷ quân trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java, và Patani ở Malaysia, rồi chiếm đất Đồng Nai Thượng của Khmer; năm 808 lại tấn công Châu Hoan, Châu Ái; năm 817, tấn công Kambujas (Kampuchia). Năm 1600, các hải cảng Nha Trang và Cam Ranh được Chiêm Thành trang bị đại pháo tối tân mua của Châu Âu để phòng thủ chống với Việt Nam.
Khánh Hoà thuộc về Việt Nam từ năm 1653. Chúa Nguyễn đưa di dân từ Quảng Nam Bình Định đến Khánh Hoà, và di dân Việt sống xen kẻ với người Chăm từng cụm như da beo. Xung đột Việt Chăm thường xảy ra ở vùng đất này, phần đông do tranh chấp ruộng đất, phần thua thiệt về người Chăm. Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu phải thoả thuận 5 điều khoản để bảo vệ quyền lợi và đối xử công bằng với người Chăm. Vào thế kỷ 18, nhiều nhà truyền giáo Âu Châu tường trình còn thấy nhiều làng người Chăm ở gần Nha Trang. Ngày nay không còn thấy làng người Chăm nào nữa. Hiện nay, trong Vịnh Vân Phong, có một đảo nhỏ tên Hòn Điệp (hay Hòn Bịp), cách bờ trên 10 km, trên đó có một sắc dân sống cô lập trong vài chục căn nhà, không giao tiếp với thế giới bên ngoài, người Việt ở Vạn Ninh gọi họ là “Dân Đàng Hạ” hay “Người Hạ”. Dân đảo có nước da ngâm đen, tai tái, có đôi mắt trắng xác, ít nói; không khiêng gánh như người Việt mà đội trên đầu. Vào đầu thập niên 1930s, quan huyện Vạn Ninh gọi tất cả dân đảo này vào ghi danh lập sổ Bộ Đinh, nhưng khi hỏi tên họ, thì chỉ có tên mà không có họ. Cuối cùng, quan huyện bảo: “Thôi thì đàn ông lấy họ Đinh, còn đàn bà lấy họ Trần vậy”. Xét qua phong tục, tập quán và hinh dáng con người, có lẻ đây là những người Chăm còn tồn tại ở Khánh Hoà cho tới ngày nay.
Bản đồ Khánh Hòa vẽ thời vua Đồng Khánh.
Từ trên (hướng bắc) xuống dưới (hướng nam) là Vịnh Vân Phong, sông Vạn Giã và đồng bằng Vạn Ninh, sông Dinh và đồng bằng Ninh Hòa, sông Nha Trang với 2 nhánh trong đồng bằng Diên Khánh, dưới cùng là Vịnh Cam Ranh. Thành Diên Khánh ờ ngã ba sông. Tại Nha Trang thấy các núi như hòn Cù Lao (Tháp Bà), hòn Kho (viện Phật Học), hòn Một (có nhà thờ Núi bây giờ), hòn Thơm, hòn Cảnh Long (cầu Đá), hòn Sinh Trung (bến xe), và núi lớn như Đồng Bò. Ngoài khơi là các đảo.
Năm 1793, chúa Nguyễn Ánh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem quân tiến đánh Diên Khánh. Sau khi đẩy lùi nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh quyết định xây dựng Diên Khánh thành căn cứ vững chắc để duy trì vùng kiểm soát của mình. Đây là một địa bàn chiến lược quan trọng nằm dựa vào dãy Trường Sơn và hai nhánh núi Hòn Ngang và Đồng Bò hình cánh cung vòng ra sát biển như một vành đai phòng ngự từ hai hướng Bắc và Nam. Ngoài đường thiên lý Bắc - Nam bảo đảm vận chuyển trên bộ, sông Cái Nha Trang xuôi bến Trường Cá, cách cửa biển chừng 10 km rất thuận lợi cho vận tải đường thủy.
Thành Diên Khánh, vào thời vua Tự Đức, còn được gọi là “Nha Trang Thành”. Trong tập "Phương Đình Dư địa chí" của Nguyễn Siêu đời Tự Đức, do Ngô Mạnh Nghinh dịch, phần viết về tỉnh Khánh Hòa ghi rõ rằng: "Năm Quý Sửu đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Quy Nhơn, lúc ban sư đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang, gọi là thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên hiểm, tục gọi là Nha Trang Thành".
Chúa Nguyễn Ánh dựa vào những sĩ quan Pháp theo ông như Olivier de Puynamer để xây dựng thành, với hơn 4.000 nhân công, cật lực hơn một tháng ròng mới hoàn thành.
Thành Diên Khánh là một quần thể kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban, một hình mẫu thành quân sự phổ biến vào thế kỷ 17, 18 ở Tây Âu, và là thành thứ hai được xây dựng ở Việt Nam, sau thành Gia Định ở Nam Kỳ.
Thành có diện tích khoảng 36,000m2. Tường thành hình lục giác dài 2,693 m, 6 cạnh không đều nhau. Trên mỗi cạnh, tường thành lại chia ra nhiều đoạn nhỏ, uốn lượn nên các góc thành không nhô hẳn ra mà vẫn bảo đảm quan sát được hai bên. Tường thành đắp đất cao chừng 3.50 m, mặt ngoài tường thành hơi dựng đứng. Mặt trong có độ thoải và được đắp thành hai bậc, tạo một đường vận chuyển thuận lợi ven thành.
Tại các góc thành, về phía trong là một bãi đất khá rộng dùng làm nơi trú quân và trên mặt thành là pháo đài, đắp bằng đất, cao khoảng 2 m, làm công sự đặt đại bác, và bên ngoài góc được đắp hơi nhô ra có thể quan sát cả hai bên.
Trên tường thành được trồng tre gai ken dày và các loại cây có gai khác vừa giữ độ bền cho tường thành vừa tăng chướng ngại cho đối phương như một hàng rào phòng ngự.
Không ảnh thành Diên Khánh (1968)
Bên ngoài thành là hào nước sâu khoảng 3 – 4 m, có đoạn sâu tới 5 m. Bề rộng mặt hào cũng không đều nhau, tại các góc thành thường hẹp hơn (chừng 15m) và rộng nhất là trước các cổng thành, chừng 40m, lòng hào thường xuyên đầy nước từ sông Cái dẫn vào. Bên ngoài hào nước đắp một đường đi - gọi là đường ngoài hào để tuần tra, vận chuyển, nhân dân gọi là đường quan phòng.
Đặc biệt, mặt Bắc thành giáp sông Cái thường bị xói mòn vì lũ lụt nên được trồng nhiều hàng cây gỗ sao để chống xói mòn, sụt lở, nên được gọi là Hàng Sao. Ngày nay, không còn mấy cây sao.
Khi xây dựng xong (1793) thành Diên Khánh có 6 cửa ở 6 cạnh: Đông, Tây, Nam (Tiền), Bắc (Hậu), Tả, và Hủu. Năm 1823, cửa Tả và cửa Hữu ở hai cạnh Tây Nam và Đông Nam đã bị lấp, nay không còn dấu vết gì.
Cổng thành là một công trình kiến trúc khối vuông vững chãi, xây bằng gạch nung (4.5 cm x 1.38 cm) gồm 2 tầng: tầng dưới gắn liền với tường thành, mặt ngoài rộng 16.8 m, cao 4.5m, xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao khoảng 2 m, cách mặt ngoài 2.5 m để lèn đất vào giữa. Cổng vào ra rộng 3.2 m, xây gạch kiểu vòm cuốn hình quả chuông, đỉnh cao nhất khoảng 3.5 m, cánh cổng bằng gỗ lim dày. Mặt tường trong xây cấp bậc bằng gạch, rộng hơn 2 m làm lối đi lên tầng trên. Tầng trên cao ngang mặt thành, hình tứ giác mỗi chiều 1.5 m, cao gần 2 m, xây cổ lầu mái uốn cong, lợp ngói âm dương. Hai bên xây ban công cao gần 1 m. Đây có thể là nơi canh gác, quan sát trong, ngoài thành. Toàn bộ cổng thành không trang trí, tên cổng ghi bằng chữ Hán. Nhìn tổng thể, cổng thành mang dáng vẽ kiến trúc Á Đông thời ấy. Hiện nay, chỉ hai cổng Đông và Tây còn trọn vẹn.
Cổng thành Diên Khánh đầu thế kỹ 20. Có lẽ Cổng Bắc, nay không còn
Bên trong vòng thành có nhiều công trình kiến trúc độc đáo. Qua khỏi cửa Tiền (cửa chính ở hướng Nam) là một cột cờ lớn. Sau cột cờ là hoàng cung, dành riêng cho nhà vua, hoàng tộc và các đại thần. Công trình có quy mô lớn nhất so với các công trình khác. Hoàng cung xây theo kiểu Điện Thái Hòa ở Huế, gồm ba gian rộng chừng 40 m, xung quanh có hành lang rộng rãi, thoáng mát. Cột kèo được chạm trổ tinh tế, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Phần trên có cổ lầu, các mái và guột mái uốn cong thanh thoát. Trên nóc gắn hai con rồng chầu một quả cầu lớn.
Trước hoàng cung là một sân gạch lớn - gọi là sân chầu - nơi các quan văn võ trong tỉnh đứng chầu khi có lễ lớn. Vị trí đứng được ghi vào cái bảng gỗ, đặt thành hai hàng hai bên, theo thứ tự từ cửu phẩm lên nhất phẩm. Giữa hoàng cung đặt một bệ gỗ lớn 3 tầng, mỗi tầng cao hơn 0.20 m. Trên cùng đặt một ngai vàng.
Bên trái hoàng cung là dinh Tuần vũ, sau đó là dinh Án sát, và sau nữa là dinh Lãnh binh, phía dưới là dinh quan Tham tri.
Ngoài các dinh thự của các quan cai trị, trong thành còn có một dãy nhà kho đồ sộ chiếm hàng ngàn mét vuông và một nhà lao xây tường đá cao kiên cố. Tất cả các mái nhà đều lợp ngói âm dương.
Vào thời Chúa Nguyễn và Tây Sơn, Nha Trang là một hậu cần cung cấp lương thảo với kho luơng thực Phước Sơn và xưởng đóng tàu chiến tại chân núi Trại Thuỷ (còn gọi Khô Sơn) ở Phương Sài ngày nay. Bến sông Phương Sài ngày xưa gọi là “Trường Cá”.
Thành Diên Khánh là nơi tranh chấp đẩm máu nhiều lần giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn. Diên Khánh lọt vào Tây Sơn năm 1776.
Tháng 5 năm Quý Sửu (1793), chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tánh đem thủy quân vào cửa bể Nha Trang, đánh phủ Diên Khánh. Một trận đánh khốc liệt giữa quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn tại Phương Sài tháng 5 năm 1793: “Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá. Hai bên kịch chiến. Người chết, thuyền chìm đầy cả khúc sông”. Nguyễn Ánh chiến thắng, tiến lên chiếm Diên Khánh (tháng 5, 1793), sau đó tiến chiếm phủ Bình Khang (Ninh Hoà), Phú Yên, rồi tiến đánh Qui Nhơn. Vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, Tây Sơn), sai Ngô Văn Sở đem 17,000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cùng tiến vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Vương, liệu thế chống không nổi, rút quân về hậu cứ Diên Khánh, rồi về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh. Tháng 11 năm 1793, chúa Nguyễn Ánh sai hoàng tử Cảnh, giám mục Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê đến Diên Khánh tăng cường phòng giữ.
Tháng ba năm Giáp Dần (1794) vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh bèn đem đại binh đến đánh giải vây, Trần Quang Diệu rút quân về. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, nên về lại Gia Định, để Võ Tánh giữ thành Diên Khánh.
Tháng giêng năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem thuỷ quân vào đánh Diên Khánh. Một trận chiến khốc liệt khác cũng xảy ra tại Trường Cá (Phương Sài). Khi thủy binh của Trần Quang Diệu vào Sông Cái thì bị quân Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá, hai bên tổn thất nặng nề “xác chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông” (3). Do bị thiệt hại nặng về nhân mạng, Võ Tánh rút quân chạy vào thành Diên Khánh cố thủ. Trần Quang Diệu vây chặt thành. Hay tin, tháng Hai năm 1795 Nguyễn Phúc Ánh liền đem thủy binh ra cứu nhưng không lên nổi Diên Khánh nên đành phải đóng quân chận nơi cửa sông Nha Trang và các nơi núi non hiểm yếu. Quang Diệu đánh mãi không được cuối cùng phải lui về Phú Xuân, và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định.
Kể từ nay cho đến ngày thống nhất đất nước (1802), Diên Khánh trở thành tiền đồn của chúa Nguyễn, lần lượt do Hùng Lộc (1653), Xuân Sơn (1654), Nguyễn Dương Lâm (1674), Nguyễn Hửu Oai (1692), Nguyễn Hữu Kính (hay Nguyễn Hửu Cảnh) (1694), Diên Phái (1713), Nguyễn Kế (?-1775), Nguyễn Thoan (1793), Nguyễn Văn Thành (1793) , Đặng Trần Thường (?), Võ Tánh (1799) cai quản. Thành Diên Khánh sau này là nơi xuất phát tấn công Tây Sơn ở phía bắc. Khu đất phía ngoài Cửa Nam Thành Diên Khánh có tên Mả Xá, là nơi hàng ngàn chiến sỉ của hai bên được chôn vùi tập thể, một thời có tiếng là ma oan hiện về khuấy phá.
Sông Cái Nha Trang phát xuất từ ngọn núi Gia Lê (cao 1,812 m) thuộc dảy Trường Sơn, dài 79 km, với 7 phụ lưu. Phụ lưu cuối cùng là sông Suối Dầu chảy vào Sông Cái qua Cầu Sông Cạn. Phần hạ lưu Sông Cái tên Chăm là Ya-Tră (người Việt phát âm thành Nha Trang), hai bên bờ toàn lau sậy nên còn gọi “Sông Lau”. Ở thế kỷ 17, sông này chảy ra biển theo ba nhánh, một nhánh có tên là Ngư Trường (tức sông Cầu Dứa) chảy từ thôn Xuân Lạc, Vĩnh Ngọc, bọc theo Đồng Bò, rồi ra Cửa Bé Cù Huân (tức Cửa Bé), như ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Hai nhánh kia, H’ra (người Việt phát âm Hà Ra) và Ya-Tră, đều chảy ra Cửa Lớn Cù Huân (sau này thành Xương Huân). Sông Ngư Trường sau này đã bị bồi đấp và biến mất, chỉ còn vài đoạn nhỏ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí: "Tấn Cửa Bé Cù Huân ở cách huyện Vĩnh Xương 29 dặm về phía đông nam, cửa lạch rộng 190 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Ngoài cửa có hòn Lam Nguyên, hòn Tằm, hòn Ba La, hòn Lớn, hòn Môn, các đảo nầy bao quanh, tàu thuyền tụ tập. Gió bắc thì tàu đổ phía nam núi, gió tây thì đổ phía bắc núi, đều được an ổn. Gần đó có thôn Trường Tây". Vì vậy, trứớc 1940, dân vùng Diên Khánh gọi Nha Trang là “Cửa”, và “Cửa Bé” là địa danh Trường Đông, phía nam Cầu Đá. Sông Cái đến địa phận Nha Trang thì chia hai nhánh, nhánh cầu Hà Ra (H’ra) và nhánh cầu Xóm Bóng (Y-Tră) bên Tháp Bà. Ngày xưa nhánh sông bên Tháp Bà "nước giữa dòng bên trong bên đục" bên nước trong xanh uống ngọt, bên kia màu đục uống vô mặn chát nước muối.
Về tổ chức hành chánh, từ thời vua Minh Mạng (1820-1837), tỉnh Khánh Hoà có Ty Bố Chánh và Ty Án Sát, đặt dưới quyền của viên quan Tuần Vủ Thuận Khánh (kiêm nhiệm cai quản từ Khánh Hoà đến Bình Thuận). Tuỳ theo tình hình chính trị, chức vị đầu tỉnh khi mang tên Tổng Đốc, khi Tuần Vủ quan phòng, sau này thành Tỉnh Trưởng. Hậu bổ Khánh Hoà năm 1842 là ông Trần Thiện Chánh (mà ca nhạc sỉ Trần Thiện Thanh, Nhật Trường, là hậu duệ).
Quân Pháp đặt chân đến Nha Trang lần đầu là năm 1862. Vị Án Sát Diên Khánh năm 1867-1870 ở Diên Khánh là Nguyễn Thông. Năm Ất Dậu 1885, chiếu theo hiệp ước Patenôtre, quân Pháp chính thức đến Nha Trang, với viên Công Sứ Pháp đầu tiên là Lenormand, bắt đầu áp đặt chánh sách cai trị Khánh Hoà. Viên Tuần Vủ Việt Nam của triều đình Huế ở Thành Diên Khánh vào khoảng năm 1886 là Ông Trương Gia Hội. Các ông Nguyễn Thông và Trương Gia Hội đều là những vị quan tài giỏi, liêm khiết, có tâm huyết, của triều đình Huế ở Thuận Khánh (Khánh Hoà Bình Thuận), có công phát triển nông nghiệp, lập dinh điền, và là người có công khám phá vùng Di Linh Lâm Đồng mười năm trước khi Bác sỉ Yersin khám phá vùng này và Đà Lạt.
Dưới thời vua Đồng Khánh, các tỉnh Bình Định, Phú yên, Khánh Hoà và Bình Thuận được gọi là các tỉnh Tả Trực Kỳ. Vào năm 1886 cai quản bốn tỉnh này bởi vị Khâm Sai là Phan Liêm, con thứ ba của Phan Thanh Giảng, và Phó Khâm Sai là Phạm Phú Lâm (con quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ trong phái bộ sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ).
Theo hiệp ước Patenôtre (06/06/1884) thì triều đình Huế - chính phủ Nam Triều - trên danh nghĩa cai quản một lảnh thổ nhỏ hẹp từ Khánh Hoà đến Đèo Ngang, trong thực tế mọi chuyện ở địa phương đều do Pháp định đoạt. Vào năm 1890, Ông Phan Liêm được Pháp và triều đình Huế cho làm Tổng Đốc Thuận Khánh.
Một trong những tổng đốc khét tiếng tàn ác ở vùng Bình Thuận Khánh Hoà cho tới Bình Định, khoảng năm 1887, là Trần Bá Lộc. Ông theo Pháp, giúp Pháp đắc lực trong việc dẹp tan và giết hại không biết bao nhiêu chiến sỉ Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định theo vua Hàm Nghi và chống Pháp. Chỉ trong một năm (từ tháng 6 năm1886 đến tháng 6 năm 1887) cùng với thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier, Trần Bá Lộc dẹp tan được Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định. Theo “Sài Gòn Năm Xưa” của Vương Hồng Sển thì cả năm trời quân Pháp không dẹp được quân Văn Thân ở hai tỉnh này (Bình Thuận và Khánh Hoà), khi bắt được địch quân thì người Pháp chỉ nhốt vào khám. Ngược lại, khi làm Tổng Đốc Thuận Khánh, chỉ trong vòng ba tháng thì Trần Bá Lộc dẹp tan Văn Thân: khi bắt được địch quân thì chặt đầu tức khắc, “chém người như chém chuối, chém không chừa một con đỏ”. Còn đối với địch binh không chịu qui hàng, thì ông “sai bắt cha mẹ vợ con người đó đóng gông cầm tù, ra hạn trong bao lâu đó nếu không qui hàng thì cha mẹ và vợ sẽ bêu đầu, trẻ con thì bỏ vào lòng cối giả gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết nem”. Vì vậy, Cầu Sông Cạn ở Diên Khánh là nơi bao chiến sỉ anh hùng bị xử trảm. Trần Bá Lộc xú danh muôn thuở. Trong bài thơ “Viếng mộ Trần Bá Lộc” tại Cái Bè (Mỷ Tho) của nhà giáo Trần Văn Hương (nguyên Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH) năm 1919 có hai câu:
“Mặt bia rờ rỡ lời khen thế,
Nét mực ràng ràng giọt máu dân...”
Năm 1885, đại thần Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra Sơn Phòng Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương chống Pháp. Tại Khánh Hòa, ông Trịnh Phong người làng Võ Cạnh, huyện Vĩnh Xương cùng hai ông Lê Nghị và Trần Đường đứng lên cùng các sĩ phu chiêu tập quân sĩ hưởng ứng hịch Cần Vương, phò vua cứu nước.
Nghĩa quân tôn Trịnh Phong là “Bình Tây Đại tướng” chỉ huy nghĩa quân và lãnh đạo phong trào Cần Vương. Nghĩa quân Khánh Hòa chia thành hai quân khu. Quân khu Bắc gồm Vạn Ninh và Ninh Hòa do tổng trấn Trần Đường chỉ huy, dưới đó còn có tham trấn Phạm Chánh, hiệp trấn Nguyễn Sum và nhiếp binh Phạm Long. Tổng hành dinh quân khu đặt tại núi Phổ Đà, cạnh đèo Dốc Thị. Quân khu Nam gồm Diên Khánh và Vĩnh Xương do Trịnh Phong trực tiếp chỉ huy, bên cạnh ông là tổng trấn Lê Nghị. Ông Nguyễn Khanh được giao chức “tán tương quân vụ” và hai người em là tham tán Nguyễn Dị và kiêm biện Nguyễn Lương chăm lo việc tuyển mộ quân sĩ, tiếp tế võ khí, lương thực và mọi việc hậu cần. Cần Vương chiếm thành Diên Khánh làm Tổng hành dinh của nghĩa quân.
Năm 1886, quân Pháp từ Nam kỳ kéo ra, đổ bộ lên Nha Trang. Trịnh Phong giao việc giữ thành Diên Khánh cho Lê Nghị, tự mình đốc xuất quân sĩ từ đồi Trại Thủy xông ra chiến đấu. Nghĩa quân chặn đánh quân Pháp nhiều trận trên cửa sông Cái ở bến Trường Cá… nhưng không cản được bước tiến của quân Pháp. Trịnh Phong cho một đạo quân lùi về khu vực Đá Lố - Hòn Thơm xây phòng tuyến, tiếp tục cản giặc, còn một đạo cho về tăng cường phòng thủ thành Diên Khánh. Quân Pháp tránh Đá Lố, tiến thẳng lên đánh vào thành Diên Khánh. Dựa vào thành cao, hào sâu và lũy tre bao bọc, nghĩa quân gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp. Pháp vây thành, dùng đại pháo 80 ly bắn vào thành, nhưng không phá được bờ thành. Ban đêm nghĩa quân tổ chức nhiều toán nhỏ, bí mật vượt thành ra ngoài đánh úp. Cuộc chiến kéo dài nhiều tháng, đạn dược, lương thực khan hiếm nên cuộc sống của nghĩa quân gặp khó khăn. Pháp đào đất đắp ụ cao hơn mặt thành, đặt đại bác lên đó bắn thẳng vào những nơi hiểm yếu trong thành, kho thuốc súng, kho lương bốc cháy…
Biết khó lòng giữ nổi, Trịnh Phong mật báo với Lê Nghị trong thành, hẹn nhau một kế hoạch giải vây. Từ bên ngoài, Trịnh Phong bí mật điều quân đánh sau lưng buộc giặc Pháp quay ra đối phó, nhân đó nghĩa quân từ bên trong đánh ra mở đường rút hết về quân khu Bắc, tiếp tục cuộc chiến đấu. Cuối cùng, phong trào Cần Vương ở Khánh Hoà bị Pháp tiêu diệt. Các thủ lỉnh đều bị Pháp bắt và bị chém ở Cầu Sông Cạn.
Địa danh Cầu Sông Cạn cũng là nơi xử trảm nhà ái quốc cách mạng phong trào Duy tân Tiến Sỉ Trần Quí Cáp (1870-1908) ngày 15 tháng 5 năm Mậu Thân (15/6/1908). Ông đang làm giáo thọ ở Ninh Hoà. Quan tỉnh Khánh Hoà lúc bấy giờ là Án sát Nguyễn Văn Mại và Bố chánh Phạm Ngọc Quát cùng với viên khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ là Lévecque đã ra lệnh xử chém ông. Theo những hồ sơ lưu trữ tại Centre des archives Outre Mer (CAOM) (Trung tâm Văn Khố hải ngoại) ở Aix-en-Provence (Pháp), một quan chức Pháp tại phủ Ninh Hòa đến tận nhà bắt Trần Quí Cáp ngày 16/4/1908, theo lệnh của khâm sứ Pháp Lévecque tại Huế và của triều đình VN. Sau hai tháng không xét xử, ông bị chém ngang lưng ngày 15/6/1908 tại Cầu Sông Cạn Nha Trang, vì người Pháp sợ Trần Quí Cáp sẽ lãnh đạo dân chúng Khánh Hòa nổi lên gây xáo trộn, sau khi những cuộc biểu tình chống sưu cao thuế nặng bùng nổ ở Quảng Nam, rồi lan dần xuống Quảng Ngãi, Bình Định. Về phía VN, người tham dự từ đầu đến cuối trong vụ án này, và cũng là kẻ đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy nhanh chóng bản án tử hình Trần Quí Cáp là quan bố chánh, phó đầu tỉnh Khánh Hòa, Phạm Ngọc Quát. Ông ta vốn nổi tiếng là một kẻ gian tham, và đã được công sứ Khánh Hòa mô tả là “Il est intelligent, très allant, on peut tirer beaucoup de lui quand il est compromise. Il m’a rendu services ici, ce n’est pas douteux, dans les dernières semaines de son sejour; mais, il a emporté beaucoup d’ argent, ...” (thông minh, rất hăng hái, có thể khai thác được rất nhiều khi ông ta có liên lụy. Không có gì nghi ngờ về việc ông ta đã phục vụ cho tôi trong những tuần lễ cuối cùng của ông ta ở đây; nhưng ông ta ẵm theo nhiều tiền bạc) (6). Ngoài ra, một người khác nghi có dính líu trực tiếp trong vụ xử tử Trần Quí Cáp là Án Sát Khánh Hoà Nguyễn Văn Mại, mặc dầu sau này Ông ta chối tội. Tư cách của Án Sát Nguyễn Văn Mại được truyền trụng khi làm Bố Chánh ở Quảng Nam như sau “Thường ngày sau khi trống đánh ba hồi, quan ngồi chễm chệ giữa công đường, xã dân đến hầu mỗi người bưng một mâm lễ, đặt dưới đất ngoài sân cho quan ngó thấy rồi sắp hàng lạy. Đối với dân thì quan hầm hét: nào giang nọc đánh, nào hăm chặt đầu, gông cổ v.v... Đã thế nhưng điều đáng buồn là khi nghe có Tây nào đến thì ôi thôi! Áo không kịp gài, giày không kịp mang, chỉ biết đứng nghe, tên thông ngôn nói chi thì dạ nấy” (Theo Trần Huỳnh Sách, học trò của Trần Quí Cáp).
Xúc động với cái chết của Trần Quí Cáp, cụ Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ chử Hán khóc bạn: “…Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng, Nha Trang thu khảo khấp anh hồn…” dịch “Bồng đảo gió thu đưa chờ giấc mộng, Nha Trang cây cỏ khóc hồn thiêng”. Cụ Phan Bội Châu trong "Văn tế Thai Xuyên Trần Quí Cáp” có viết: "Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khẳng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách!". Còn cụ Phan Châu Trinh, từ trong nhà tù Côn đảo, cũng có bài thơ khóc Trần Quí Cáp:
“Anh biết cho chăng hởi Dã Hàng!
Thình lình sóng dậy cửa Nha Trang
Lời nguyền trời đất còn ghi tạc
Giọt máu non sông đã chảy tràn
Tinh vệ nghìn năm hờn khó dứt
Đổ quyên muôn kiếp oán chưa tan”
Trong cuộc thám hiểm Đà Lạt năm 1893, Bác Sỉ Yersin bị phục kích bắn bị thương ở rừng núi Phan Rang. Nhóm phục kích là tù chánh trị vượt ngục ở Phan Thiết do một người tên Thục cầm đầu. Một tuần sau, quân Pháp bắt được 40 trong số 56 người vượt ngục, trong số đó có viên chỉ huy Thục, giải về Diên Khánh xử trảm. Trong bức thư gởi mẹ ở Pháp, Bác Sỉ Yersin ca ngợi kẻ tử tù này là “rất can đảm và trầm tỉnh khác thường” trước nhát gươm kết liểu cuộc đời.
Viên Công Sứ (tức Tỉnh Trưởng) năm 1930 và 1933, lần lượt là Ông Bréda và Ông Destenay. Viên Tuần Vũ Việt Nam cùng thời là Ung Trinh (hay Trinh Ung). Vị Tỉnh Trưởng người Việt đầu tiên ở Nha Trang là ông Hoàng Phúc Hải (1950).
Tỉnh lỵ Khánh Hoà đặt trong nội thành Diên Khánh – nên được gọi Thành – cho đến 1945. Năm 1901, Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hoà, và từ đó đến 1945 tỉnh Khánh Hoà gồm hai phủ và bốn huyện, phủ Diên Khánh có hai huyện là Vỉnh Xương (Nha Trang) và Phước Điền, và phủ Ninh Hoà có hai huyện là Quảng Phước và Tân Định. Vào đầu thế kỷ 20, ngoài hai địa hạt hành chánh biệt lập là tỉnh Khánh Hoà và thị xả Nha Trang, còn có hai cơ quan hành chánh đặc biệt gọi là Đại Lý (Délégation), như Délégation de Ba Ngòi và Délégation de Suối Dầu do một viên chức người Việt điều khiển gọi là Bang Tá.
Nha Trang ngày xưa, nhà cửa thưa thớt
Nha Trang thập niên 1930s. Hình chụp từ đồi Trại Thuỷ. Xa xa là Ga xe lửa, Nhà Thờ Núi và biển
Về mặt hành chánh, Nha Trang, trước năm 1945, gồm nhiều đơn vị gọi là Phường, đặt theo thứ tự là Phường Đệ Nhất, Phường Đệ Nhị (1er quartier, 2 ème quartier). Vùng ngoại ô Nha Trang gồm có Phường Sài (thường gọi Phương Sài), Phường Củi, Trường Đông (Cửa Bé), Trường Tây (Cầu Đá). Nghị định ngày 30/6/1924 của viên Toàn Quyền Đông Dương thiết lập thị trấn Nha Trang với bốn làng là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh và Phương Sài. Nghị định ngày 15/3/1944, thị trấn Nha Trang được nâng thành thị xả với năm phường là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài và Phước Hải. Phước Hải trước 1944 gồm có Xóm Giá (chuyên làm giá) và Xóm Dương, nhà cửa thưa thớt, toàn là đồng cát, gò mả và cây ma dương. Năm 1945, tỉnh lỵ được dời từ Diên Khánh tới Nha Trang. Thời Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh Khánh Hoà gồm các quận Vạn Ninh, Ninh Hoà, Vĩnh Xương, Diên Khánh và Cam Lâm, với tỉnh lỵ Nha Trang. Ngày 27 tháng 01 năm 1958, bải bỏ qui chế thị xả, chia Nha Trang thành hai xã, là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây, đều thuộc quận Vĩnh Xương.
Theo Gabrielle Vassal (4), một phụ nử Anh có chồng Pháp là bác sỉ thú y làm tại Viện Pasteur, đã sống ba năm ở Nha Trang từ năm 1904, thì Nha Trang là một làng đánh cá nghèo nàn với khoảng 3 ngàn dân, đa số sống nghề đánh cá, nhà tranh, một ít là nhà ngói, có một khách sạn nhỏ của người Tàu, con nít còn ở truồng chơi ngoài đường. Đa số dân chúng bị bịnh mắt bét, mắt hột.
Dân chúng Nha Trang nô nức ăn Tết (1905)
Cũng theo Gabrielle Vassal, so với vùng phụ cận Sài Gòn thời đó, thì Nha Trang quá nghèo nàn. Cửa Bé là cảng tàu tây phương cập bến, ở đó người Pháp có xây một hải đăng hướng dẩn tàu bè. Cửa Bé cũng rất nghèo nàn, cứ mổi 15 ngày có một chuyến tàu bằng hơi nước chạy đường Sài Gòn Hải Phòng ghé cập bến Cửa Bé. Đường từ Cửa Bé đến Nha Trang là đường mòn nhỏ hẹp đầy ổ gà, với bụi cát và bùn lầy, với chiếc xe cọc cạch với con ngựa nhỏ thó. Đoạn quốc lộ qua Nha Trang cũng tương tự như vậy. Cũng khoảng thời điểm này, Nha Trang có khoảng từ 20 đến 30 người Âu Châu, đa số là Pháp, gồm nhân viên hành chánh (đa số là thuế vụ) và quân sự Pháp, kỷ sư Lục Lộ (Công Chánh), Hoả Xa (bắt đầu xây dựng) và các nhà truyền giáo. Đứng đầu là vị Công Sứ (Résident Maire) Pháp. Về mặt kiến thiêt, Nha Trang lúc đó (1904) đã có Avenue de la Plage (Đại lộ Duy Tân) chạy dọc biển, dọc đó đã có Viện Pasteur (xây năm 1895), dinh Công Sứ (khu Tỉnh Trưởng), dinh Quan Năm (tức Bác Sỉ Yersin, xây 1895) ở Xóm Cồn, vài nhà người Pháp, một khách sạn (có lẻ khách sạn La Frégate) dành cho người Âu Châu và Bưu Điện. Nhà của người Pháp xây bằng gạch tường quét vôi trắng, mái ngói nâu, nhà có 3 gian, mặt trước là hàng hiên, phía trước là một vườn hoa rộng. Mặt sau là một nhà cách biệt gồm nhà bếp, phòng dành cho gia nhân người Việt khoảng 4-5 người.
Xóm Cồn năm 1902
Xóm Cồn, mé sông và Lầu Ông Năm
Chợ Đầm. Chợ Nha trang đầu tiên (chưa phải Chợ Đầm) được xây vào cuối thế kỷ 19, nền xi măng, mái ngói, còn nhỏ hẹp, chợ nhóm ngày hai buổi, sáng và chiều, trái cây, rau cải, cá mắm bán la liệt chung quanh chợ. Vào mùa khô thì chợ đầy bụi bậm, vào mùa mưa thì ngập nước phải lội có khi tới đầu gối.
Chợ Đầm trong mùa mưa 1905
Đầm kế chợ (nay đã lấp)
Đường phố gần Chợ Đầm đầu thập niên 1930
Chợ Đầm năm 1927
Chợ Đầm
Chợ Đầm năm 1951
Chợ Đầm hay Chợ Cửa được xây cất lại vào năm 1908, nền cao trên 1 m để tránh ngập lụt, dài và rộng thoáng hơn trước, dọc theo đường phố và bờ hổ có xây nhiều kyosks. Vì dân số Nha Trang gia tăng quá nhanh, buôn bán rất sầm uất, người buôn kẻ bán phải chen chúc ngay cả lề đường Phan Bội Châu, nên chính quyền Nha Trang thông qua Ty Kiến Thiết có dự án xây chợ mới, dự án thiết kế năm 1961 do kiến trúc sư Lê Anh Kim, rồi năm 1964 Tổng Nha Kiến Thiết Sài Gòn lập một dự án bổ túc thêm do kiến trúc sư Lê Quí Phong (cựu học sinh Võ Tánh, bạn cùng lớp với Trần Đăng Nhơn) đề xuất. Dự án chưa thực hiện thì Chợ Đầm bị hoả hoạn vào đêm 16/9/1968 với 126 tiệm buôn bán bị cháy rụi. Một đồ án xây dựng khu vực chợ với quy mô mới, toàn diện hơn được hình thành, có sự phối hợp của nhiều ngành hữu trách gồm lấp toàn bộ đầm, xây cất ngôi chợ mới cùng hai thương xá và chung cư, làm lại đường sá, hệ thống cống rãnh thoát nước, v.v.
Ngày 12-4-1969 khởi sự kế hoạch với việc chiếc xáng Bassa của Nha Thủy vận Sài Gòn thổi cát lấp đầm. Sau 6 tháng, đầm đã bị lấp hoàn toàn với khối lượng cát đã thổi là 350,000 m3. Tiếp theo là việc tạo móng, dựng nền và xây cất công trình, hàng nghìn cọc bê tông cốt sắt dài 20 m đã được đóng xuống qua lớp sình lầy.
Dựa theo đồ án của Kiến trúc sư Lê Quý Phong được thiết kế từ 1964, các Kiến trúc sư Hồ Thăng, Võ Đình Hiệp, Kỹ sư Nguyễn Xuân Phương cải tiến và bổ sung thêm một số chi tiết. Ngôi nhà chính ở trung tâm chợ được xây cất theo hình tròn, mái xếp thành hình chữ V tượng trưng cho bông sen và những cánh sen, đường kính của ngôi nhà 66.5m, có một tầng lầu hình vành khăn, lệch tâm. Diện tích cả tầng trệt và tầng lầu rộng tới 5,270m2, có thể cùng lúc chứa được trên 3,000 khách ra vào mua bán. Hỗ trợ và phối cảnh với ngôi nhà tròn là hai tòa cao ốc 4 tầng A và B, tầng trệt là thương xá, các tầng trên là chung cư được xây cất theo đường lượn cong bao bọc vành ngoài ngôi nhà tròn, mỗi cao ốc đều có diện tích trên 2,500 tới trên 2,800 m2, thiết kế thoáng, trang nhã. Hai cao ốc này được khởi công xây dựng đầu năm 1970 và hoàn thành vào cuối năm 1972. Ngôi nhà tròn và toàn bộ khu chợ được hoàn thành, đưa vào khai trương sử dụng năm 1974.
Bệnh viện Nha Trang – nhà thương thí - được thiết lập khoảng 1890 do Bác Sỉ Yersin đề xướng. Năm 1896, dịch hạch xuất hiện ở Nha Trang, nạn nhân chết đầu tiên lại là Bác sỉ Thú y Pesas, viên trợ lý của Bác Sỉ Yersin tại Viện Pasteur Nha Trang phụ trách sản xuất huyết thanh tại Suối Dầu. Tháng 6 năm 1899, dịch hạch tái phát ở Xóm Cồn, rồi đến tháng 12 năm đó lan rộng đến hai làng khác ở Nha Trang. Để diệt trùng, nhà cửa đâu đâu cũng đều được xịt nước vôi trắng xoá. Sau đó, chính quyền phải cho đốt sạch nhà cửa (để tiêu diệt chuột), di tản dân chúng đến vùng khác và tiêm ngừa huyết thanh toàn thể dân chúng Nha Trang mới ngăn chận được dịch hạch. Cũng trong thời kỳ này, dân vùng quê Diên Khánh mắc bịnh và chết vì sốt rét rất nhiều.
Trường học. Năm 1902, khi Ông Beau lên làm Toàn Quyền Đông Dương thay thế Toàn Quyền Paul Doumer, Ông bải bỏ Nho Học thay vào bằng chử Pháp, lập Y Tế Cục, lập nhà thương, bưu điện, sở công chánh. Vì vậy, Nha Trang có một trường tiểu học kiểu mẩu dạy chử quốc ngử khánh thành năm 1906, đó là Trường Nam Tiểu Học Nha Trang. Ông Nguyễn Văn Hai đến nhậm chưc Án Sát tháng 11 năm 1905, là người có công xây dựng các trường học ở Khánh Hoà. Về tình trạng văn học và giáo dục ở Khánh Hoà đầu thế kỷ 20, Án Sát Nguyễn Văn Hai viết nhận xét vào năm 1911:
“Dân cư hai tỉnh Thuận Khánh phần đông làm nghề nông, không chuộng văn học, sở xưng cư trú trong tỉnh phần nhiều là Nghệ Tỉnh ngụ cư. Ngưới làm việc phần nhiều học trò người Quảng Nam, Quảng Ngãi. Còn người bản tỉnh, ngoài những người làm ruộng và chăn nuôi, toàn là những người ăn chơi. Lúc ấy, khuyến thị lập trường được 24 trường, mỗi trường tốn 2-3 ngàn đồng, trong trường, bàn ghế, vật dụng, màn trướng, khí mảnh đều đầy đủ. Ai nấy phấn khởi. Tại Bình Thuận, có Tú Tài Nguyễn Hiệp Chi hội họp các bạn lập liên thành thơ quán, uỷ người đến ta xin ta câu đối:
Dư ngã tẩy trừ ô nảo cựu
Vị quân diễn thuyết vũ đài tân
Tại Bình Thuận lập thơ xã, tại Khánh Hoà lập học trường. Cho nên một độ nhân sỉ Nghệ An, Nam Nghĩa từ Bắc vào Nam rất đông. Phàm người cựu học mà kiêm thông quốc văn, đến đó được một nghề giáo sư không đến nổi thất nghiệp. Lúc đó trú kinh Khâm Sứ Khánh Hoà thăm, thấy các trường chỉnh tề rất khen, liên tư về Cơ Mật thông tư cho các tỉnh biết.
Tại Khánh Hoà lập trường như vậy nhưng học trò vào học thí là một thời đại khác. Đáng cười. Nguyên nghĩ trẻ con được 8 tuổi đến số 30 trẻ thì thiết lập một trường Tổng. Lúc đó đi hiểu thị chỉ đến các nhà phú hào để kê số trẻ có thể đi học, mà con nhà nghèo không kê vào số ấy. Đến ngày mở trường thì phần nhiều con nhà nghèo đến học, con nhà khá thì ít. Trẻ con trước kia phần đông kê khai không vào học. Các giáo sư kê tên bẩm lên. Khi nghiêm sức lại thì một số con nhà giàu thuê con nhà nghèo mạo tên đến học thế. Giá thuê mỗi tháng 3 đồng hoặc 5 đồng. Ấy là cũng một câu chuyện buồn cười lúc đầu mới lập trường. Nhưng sau lại, nhà giàu thấy con nhà nghèo đi học chưa được năm ba tháng đã biết đọc sách, đọc bài, viết thơ, v.v., mới thấy học quốc ngữ có ích, khi đó mới cho con em đi học” (Tư liệu của Trần Văn Tư, Đăc San Võ Tánh/Nử Trung Học Nha Trang 31 Năm Nha Trang Viễn Xứ Nam Cali 2006, trang 270-271).
Toàn tỉnh Khánh Hoà vào năm 1906 có 24 truờng tổng. Năm 1928, thầy Cung Giũ Nguyên đến dạy học ở đây với chức trợ giáo (instituteur stagiaire). Muốn được làm thầy giáo, phải có bằng Thành Chung và phải đậu thêm Bằng Khả Năng Sư Phạm (Brevet d’Aptitude peùdagogique). Bằng này cần thiết để vào ngạch, nếu trong hai năm không đổ thì bị sa thải. Thầy giáo trong thời này mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, chân mang dày hạ bóng nhoáng. Ngay cả các thanh tra người Pháp cũng khăn đóng, áo dài Việt nam.
College de Nha Trang, tiền thân của Trung Học Nha Trang, sau này là Võ Tánh, thiết lập năm 1947 với một lớp duy nhất 1ère année (tức Đệ Thất) khỏang 30 học sinh, mượn lớp học của Truờng Nam, dạy theo chuơng trình Pháp Việt. Thầy Trương Văn Như làm hiệu trưởng đầu tiên (từ 1947 đến 1951). Về sau, Thầy Như mở trường tư thục tức trường Kim Yến. Thầy Vỏ Thành Điểm làm giáo sư hội hoạ từ 1947. Từ 1949, chọn được khu đất rộng, với sự giúp đở đặc biệt của Ông Tỉnh Trưởng đương thời Trần Thúc Linh trích từ ngân sách tỉnh, trường được xây cất và niên khoá 1952-1953, trường dời về vị trí ngày nay và mang tên Võ Tánh, gồm 8 phòng học (4 ở tầng trệt, 4 trên lầu) và dạy chương trình Việt.
Nha Trang có một nguyệt san đầu tiên, năm 1930, “Les Cahiers de la Jeunesse ” viết bằng tiếng Pháp do thầy Cung Giũ Nguyên và Ông Raoul Sereøne (nhân viên Hải Học Viện Nha Trang) chủ trương.
Sân tennis trước Trường Nam cũng đã có vào năm 1903, dành cho người Pháp.
Thành phố Nha Trang. Dân số Nha Trang vào năm 1905 khoảng 3,000 dân, tăng lên 40,000 dân năm 1943, 172,000 năm 1979, 213,500 năm 1989, và 340,000 năm 1998. Dân số Nha Trang tăng nhanh sau 1945 do mất an ninh vùng thôn quê, 1954 do dân di cư từ Miền Bắc chạy trốn Cộng Sản sống tập trung nhiều ở Xóm Mới Phước Hải, sau 1975 do di dân từ miền Bắc.
Diện tích thành phố chính của Nha Trang năm 1998 là 7,255 ha, nếu kể phụ cận là 238,000 ha.
Y phục phụ nử trong nhà và y phục giới thượng lưu Nha Trang năm 1907
Theo bút tích của các nhà truyền giáo (5), Nha Trang vào đầu thập niên 1930s còn nhiều nơi hoang vắng, không người ở, đêm đêm cọp lai vảng dọc biển trên đường Avenue de la Plage khoảng gần Chụt. Khoảng đất từ Nhà Thờ Núi tới biển còn hoang vu, chưa có dân cư, toàn là cát trắng, mồ mả, và cây ma dương. Trong thành phố, dân sống thưa thớt, nghề chính là đánh cá, nghề nông, một số ít là công chức. Phố xá, chỉ tập trung trên một phố chính, vẫn là ngôi chợ củ nhỏ (chưa có Chợ Đầm). Trên Avenue De La Plage chỉ có một số biệt thự người Pháp như đã có từ 1903.
Avenue de la Plage – Đại lộ Duy Tân
Hotel Beau Rivage
Tôn giáo. Về mặt tôn giáo, theo bia đá Võ Cạnh thì đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa từ Ấn Độ du nhập vào Nha Trang từ thế kỷ thứ hai, và từ nơi đây truyền bá đến Bắc Chiêm. Di tích Phật giáo nay không còn, nhưng di tích Bà La Môn Ấn Độ Giáo là di sản văn hoá Chăm tồn tại và được dân Việt bảo tồn. Theo lịch sử Chăm ghi năm 653 dân Chăm lập đền thờ vinh danh nử hoàng Jagadharma đã đưa đất nước Chăm thanh bình thịnh trị. Đền thờ bẳng gổ được xây trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông có tên Ya-Tră. Đó chính là tiền thân của Tháp Bà ngày nay. Vào thế kỷ thứ 7, Hồi giáo được các thuyền buôn Á Rập du nhập vào Nam Chiêm qua các cảng Nha Trang và Cam Ranh, nhưng không thịnh hành, mải tới thế kỷ thứ 10 mới thành công nhờ các nhà truyền đạo Hồi giáo ở Java. Tuy nhiên, đạo này chỉ thịnh hành với người Chăm ở vùng Phan Rang trở vào mà thôi.
Phật giáo Đại Thừa và lể cúng Ông Bà được di dân Việt du nhập vào Khánh hoà kể từ năm 1653. Người Việt đến đâu đều thành lập làng xả, ở đó dân Việt xây cất Đình, Chùa, Miếu và Am. Đình là nơi thờ phượng các vị tiền hiền khai phá thành làng xả, hay các vị có công, các anh hùng, hay công thần do Triều đình chỉ định thờ cúng. Đình làng cũng là nơi chính quyền làng xả làm việc, nơi hội họp của dân chúng, nơi đình đám, lể lạc, hội hè, hát bội, bài chèo v.v. được tổ chức. Đình xây với mái ngói âm dương, tường gạch, nền cao, ở vị trí trung tâm của làng xả, trên mảnh đất cao ráo nhất trong làng. Nha Trang có Đình Xương Huân, Phương Câu, Phương Sài, Đình Ông (thờ cá Ông). Chùa là nơi thờ Phật, có vị sư trụ trì, có cổng tam quan, thường xây cất ở nơi tôn nghiêm, trên đồi cao, có nhiều cây cổ thụ. Miếu để thờ các oan hồn, tử sỉ, mỗi năm chỉ làm lể bái một lần. Am là nơi tu thiền của một vài cá nhân, thường là nơi vắng vẻ.
Ở Ngọc Hội, có chùa Kim Sơn là cổ kính nhất, có lẻ xây dựng từ 1708. Năm Canh Thân (1740), Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sắc cho đổi tên là Chùa Qui Tôn, lại ban cho biển ngạch. Ngoài ra, chùa An Dưởng ở Thái Thông do Ngài Thiệt Phú xây dựng có lẻ cũng từ năm 1708.
Một miếu nổi tiếng và cổ xưa nhất Nha Trang còn tới ngày nay là một miếu thờ thần linh xây dựng năm 1795 trên một ngọn đồi ở Sinh Trung. Ngay sau khi lên ngôi năm 1802 vua Gia Long truyền lệnh xây dựng lại quy mô miếu này - Miếu Tinh Trung - để thờ các anh hùng, công thần, tử sỉ có công với Nhà Nguyễn. Địa danh Sinh Trung bắt nguồn từ Tinh Trung. Năm 1852, vua Tự Đức cho trùng tu lại và đặt tên Trung Nghĩa Miếu. Đức Từ Cung Thái Hậu (Mẹ vua Bảo Đại) thường đến cúng lể hàng năm. Năm 1950, ngài hiến dâng miếu này cho Phật Giáo, và kể từ nay trở thành Chùa Kỳ Viên. Dân Nha Trang còn gọi là Chùa Núi. Vị hoà thượng đầu tiên toạ trì là Hoà Thượng Thích Thiện Minh.
Chùa Hải Đức được Thiền Sư Sư Viễn Giác xây năm 1883, trong thành phố Nha Trang. Đầu tiên chỉ là một ngôi chùa nhỏ, có tên Duyên Sanh Tự. Đến 1891, xây chùa lớn trang nghiêm hơn mang tên Hải Đức Tự. Năm 1943, Đại sư Bích Không dời chùa lên đồi Trại Thuỷ, chùa hoàn tất năm 1945. Cũng trên đồi Trại Thuỷ, còn hai chùa nữa là Chùa Long Sơn và Chùa Bửu Phong (hay Linh Sơn). Nổi tiếng là tượng Phật cao 9 m xây dựng năm 1963, cao 14 m kể cả bệ hoa sen. Leo 152 tam cấp.
Các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo người Pháp đến Nha Trang từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Năm 1653 cha Dòng Tên là Phêrô Marques và năm 1655 một cha Giám Tỉnh Dòng Tên khác là Phanxicô Rivas đến giảng đạo tại trấn Khánh Hoà. Năm 1664, Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Société des missions étrangères) gởi Cha Chevreul đến truyền đạo ở các tỉnh Miền Trung, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc truyền đạo. Năm 1672, Cha Lambert de la Motte trên đường đi họp Công đồng Ðàng Trong cùng với hai cha Miền Nam tiên khởi là cha Giuse Trang và Luca Bền đến Chợ Mới giảng đạo.
Thiên chúa giáo phát triển mạnh ở Khánh Hoà kể từ năm 1793, khi giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) được chúa Nguyễn Ánh sai đến tăng cường phòng thủ thành Diên Khánh cùng với hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê. Bá Đa Lộc bấy giờ là đại công thần của chúa Nguyễn Ánh. Nhờ vậy, các làng đạo Thiên chúa giáo thành hình đầu tiên ở Khánh Hoà là xóm đạo Hà Dừa (kế thành Diên Khánh), Bình Cang (giữa Thành và Nha Trang) và Ngọc Hội (Chợ Mới). Từ các địa phận này, Thiên Chúa Giáo được phát triển đến Nha Trang và các địa phương khác ở Khánh Hoà.
Vào những năm 1858-1862, phong trào “Sát Tả” chống phá Thiên Chúa Giáo dưới thời Tự Đức, các làng này bị tổn thất khá nhiều nhân mạng, một số dân theo đạo bị đem xử trảm tại Cầu Sông Cạn. Tổng số con chiên của toàn tỉnh Khánh Hoà năm 1887 là 1210 người.
Năm 1929, Nha Trang chưa có nhà thờ, có khoảng 300 con chiên, đa số làm nghề đánh cá, nông dân, một số ít là công chức. Tuy nằm trong thị xã, nhưng Nha Trang lại là họ nhánh thuộc giáo xứ Chợ Mới. Ngày Chúa Nhật, cha sở Chợ Mới lên Nha Trang làm lễ tại một ngôi nhà trên Avenue De La Plage, hiện nay là trụ sở Tòa Giám Mục. Nha Trang lúc bấy giờ trên phương diện kiến thiết cũng chưa có gì đáng kể ngoài khu chợ với vài dãy phố buôn bán và một số biệt thự của Pháp cất dọc theo bãi biển. Nha Trang vào năm này chưa có Nhà Thờ Núi.
Ngay sau khi được cử làm họ đạo Nha Trang, linh mục Vallet (Louis-Agrève-Célestin, 1869-1945, tạ thế tại bịnh viện Nha trang) chọn một ngọn đồi ở tây nam Nha Trang tức Núi Một để xây cất nhà thờ. Bắt đầu khởi công vào tháng 2 năm 1929, mất gần 3 năm để làm đường lên núi và chuẩn bị xây cất, năm 1932 mới thật sự xây cất, mải tới Phục Sinh 1933 mới hoàn tất, nhà thờ Núi được Ðức Giám Mục Grangeon (Ðức Cha Mẫu) làm phép. Hơn một năm sau, nhà thờ Núi có thêm hai chuông lớn và đồng hồ còn lại cho đến ngày nay. Về sau Núi Một bị xẻ làm đôi thành con đường Nguyễn Trải.
Nhà Thờ Núi Nha Trang
Đối diện với Tháp Bà bên kia Quốc Lộ 1, trên một ngọn đồi tuyệt đẹp là nhà Tập Dòng Sư Huynh La San, Tu viện Phanxicô, Tiểu Chủng Viện Hoa Mai (thành lập năm 1954), nhà Nữ Tu Kín (khánh thành tháng 9 năm 1961). Cha Maurice Bertin thuộc dòng Phanxicô đến Nha Trang bắt đầu công việc xây dựng Tu Viện PhanXicô cùng với các cha Hugolin Lemestre, André Durand và Léonard Ramon, vào khoảng tháng 6 năm 1938 và gần hai năm sau, tháng 7 năm 1940, tu viện Phanxicô hoàn tất.
Trước kia giáo phận Nha Trang (ngày xưa gọi là địa phận) thuộc giáo phận Qui-Nhơn. Tuy nhiên, Đức Cha Marcello Piquet (tên Việt là Lợi), vẫn ở tại 22 Duy Tân Nha Trang. Năm 1957, giáo phận Nha Trang được tách rời khỏi giáo phận Qui Nhon. Đức Cha Phạm Ngọc Chi được điều về làm giám mục Qui Nhon và Đức Cha Lợi làm giám mục Nha Trang. Tuy nhiên chi nhánh 22 Duy Tân trở nên nơi tạm thời của tiểu chủng viện tân lập Stella Maris Nha Trang. Đức Cha Lợi do đó dời tạm tòa giám mục về 78 Duy Tân. Năm 1958, cơ sở tiểu chủng viện bên Thanh Hải đã xây dựng xong, do đó các chú dời về đó và tiểu chủng viện Sao Biển chính thức khai giảng với các lớp 8, 7, 6, 5, 4 và 2.
Giao thông. Quốc lộ xuyên Việt bắc nam đi qua Nha Trang đã có từ thời Chiêm Thành, nhưng núi rừng ma thiêng nước độc, lắm đèo cao, nhiều sông rộng, đường bộ chỉ dùng khi chinh chiến. Giao thông chính vẫn là đường biển, từ các cảng Chutt, Cửa Bé và Cam Ranh thuyền bè tấp nập ra bắc vào nam. Sau khi thống nhất đất nước (1802), vua Gia Long cho trùng tu lại quốc lộ Bắc Nam (Route Mandarine – Đường Cái Quan hay Quan Lộ) từ năm 1803, và thành lập các bưu trạm liên lạc bằng ngựa. Đường bằng đất, có nơi rải đá, mùa hè thì bụi bậm, mùa mưa thì lầy lội.
Đến thời Pháp (sau 1885), để đặt nền cai trị lâu dài và khai thác tài nguyên, chính quyền Pháp ưu tiên trong việc thành lập dinh trại binh lính địa phương (lính Khố Xanh, Khố Đỏ) ở các yếu điểm quân sự, đặc biệt bảo vệ khu Công Sứ Pháp, thành lập cơ sở Lục Lộ để làm đuờng mới, nới rộng và tráng nhựa. Sở Lục Lộ Nha Trang được thiết lập đầu thế kỷ 20, dưới thời ông Toàn quyền Beau (1902), do các kỷ sư Pháp quản lý, công nhân là Việt Nam. Năm 1936, một hoàng tử Lào, đậu kỷ sư Công Chánh ở Paris, về Nha Trang làm ở sở Lục Lộ, cưới một cô gái Nha Trang làm vợ. Vị hoàng tử này chính là Tiao Souphanouvong, có một thời (1946-1949) cùng vua anh cai trị nước Lào. Con đường chạy dọc biển từ Xóm Cồn tới Chutt mang tên “Avenue de la Plage”.
Trên đường biển, từ những năm đầu 1900’s, cứ mỗi hai tuần là có một chuyến tàu chạy Sài Gòn – Hải Phòng cặp bến Cửa Bé. Cửa Bé bấy giờ vừa có một hải đăng để hướng dẫn tàu. Tàu phải đậu ngoài khơi, hành khách là các công chức Pháp, lính Pháp, các kỷ sư lục lộ, v.v. phải chuyển qua ghe nhỏ để vào cửa sông Cửa Bé, ở nơi này có sẳn người “bản địa” để cỏng từ ghe vào bờ, và khiêng hành lý lên những xe nhỏ. Con đường chạy từ Cửa Bé đến Nha Trang vào năm 1904 được mô tả là đầy ổ gà và bụi bậm vào mùa khô, sình lầy vào mùa mưa.
Quốc lộ 1 năm 1904 tại Cap Varella Bà Gabrielle Vassal ngồi xích lô trên đường phố Nha YTrang 1907
Nha Trang có hai chiếc xe hơi đầu tiên vào năm 1901 là của Bác sỉ Yersin: đó là chiếc Serpollet năm mã lực, chiếc xe Clément, và một thuyền máy mua từ Pháp, trong khi công sứ tại Nha Trang chưa có xe. Hai năm sau (1903), ông bán chiếc Serpollet năm mã lực này cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu chiếc xe Serpollet sáu mã lực. Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, để tậu chiếc Serpollet mười một mã lực. Năm 1910, ông định mua một chiếc máy bay, nhưng vì cả Việt Nam chưa có phi trường, nên bỏ ý định đó. Air France mở chuyến bay dân sự đầu tiên Sài Gòn-Paris năm 1932, phải mất cả tuần lể mới tới nơi. Bác sỉ Yersin đáp chuyến bay đầu tiên này để về Pháp.
Đường xe lửa xuyên Việt bắt đầu thiết kế xây dựng ở Việt Nam năm 1904, đoạn Phan Rang - Nha Trang hoàn tất năm 1912 với các ga Suối Dầu, Cây Cầy, Phú Vinh, Nha Trang, Ngọc Hội, v.v.
Phi trường Nha Trang 1952
Bác sỉ Yersin. Công trình phát triển Nha Trang phải nói là nhờ Bác Sỉ Yersin. Bác sỉ Yersin đến Việt Nam ngày 18 tháng 10 năm 1890, đặt chân đến Nha Trang ngày 29 tháng 7 năm 1891, và qua đời ngày 01 thảng 3 năm 1943, chôn trên một ngọn đồi nhỏ trong vườn cao su Suối Dầu.
Viện Pasteur đựợc xây năm 1895 do Bác Sỉ Alexandre Yersin chủ xướng. Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương Chevassieux trợ cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ bể Nha Trang, và cất tại Suối Dầu một trại nuôi trâu bò, lừa ngựa, cùng thỏ chuột, dùng cho việc thí nghiệm. Năm 1896, ông được chánh phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc thú vật. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến thị sát Nha Trang và thăm viếng Viện Pasteur. Cũng năm này, Yersin chọn cái lô-cốt hai tầng bỏ hoang gần xóm Cồn tại cửa Sông Cái để xây nhà ông –Dinh Ông Năm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, nơi đây vốn là một đồn biên phòng rất lâu đời. Dinh Ông Năm mỗi bề khoảng 7m50, có 3 tầng. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc, có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn. Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.
Năm 1897, Bác sỉ Yersin cho nhập nội giống cao su vào trồng thí nghiêm ở Suối Dầu, và Đồng Trăng, và sau đó với sự cộng tác của kỷ sư canh nông Vernet, hơn 100 ha cao su được trồng vào năm 1909. Năm 1915, Bác sỉ Yersin cho trồng thí nghiệm cây kí ninh ở Hòn Bà để cung cấp thuốc trị sốt rét trong thời đệ nhất thế chiến. Bác sỉ Yersin cũng mở hai trại nuôi bò, một ở đảo Hòn Tre và một ở Suối Dầu. Về sau, bỏ đảo Hòn Tre, và bò ở Hòn Tre trở thành bò rừng.
Hải Học Viện Nha Trang được thành lập tại Cầu Đá năm 1921. Giám đốc đầu tiên là Armand Krempf. Công tác xây cất với đầy đủ trang bị khoa học và khánh thành ngày 01/01/1930. Hải Học Viện Nha Trang đã nổi tiếng quốc tế vì những nghiên cứu hải dương học kể từ năm này. Tháng Hai năm 1933, vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu đến thăm viếng. Ngày 01/01/1952, Hải Học Viện được trao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, vị giám đốc người Việt đầu tiên là Ông Ngô Bá Thành. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ và Giáo sư Nguyễn Hải có một thời làm việc ở đây. Thầy Nguyễn Hải cũng dạy Võ Tánh khoảng 1956.
Nhà nghỉ mát của vua Bảo Đại xây cất năm 1923 trên một ngọn đồi ở Cầu Đá.
Grand Hotels trên Avenue de la Plage hoàn thành vào cuối thập niên 1920s.\
Grand Hotel
Có hai rạp hát cinê đầu tiên của Nha Trang vào cuối thập niên 1930s. Trên đường Độc Lập có rạp Abraham, năm 1953 ông Tôn Thất Đệ mua lại đổi tên thành rạp Tân Tân. Kế gần đó là rạp Tân Tiến, chủ là một người Ấn Độ. Rạp hát bội Thạnh Xương do ông Cò Xương thành lập khoảng 1940s để đáp ứng nhu cầu xem hát bội của dân Nha Trang ngày trước.
Hải Học Viện Cầu Đá. Năm 1933, Vua Bảo Đại và Hoàng Hậu Nam Phương viếng Hải học Viện (hình phải)
Dinh Quan Năm Yersin năm 1904, nay không còn
Nha Trang nổi tiếng với phong cảnh đẹp tuyệt vời. Con dân gốc Nha Trang, trong nước cũng như ngoài nước, đều hảnh diện về quê hương của mình. Nha Trang còn nổi tiếng quốc tế. Tháng 6 năm 2003, Nha Trang được Câu Lạc Bộ các vịnh đẹp trên thế giới công nhận là một trong số 29 vịnh đẹp nhất thế giới. Tin vui này đến trể. Hơn một trăm năm trước (112 năm), vào một buổi sáng đẹp trời ngày 6 tháng 5 năm 1891, một thanh niên Pháp gốc Thụy Sỉ, 28 tuổi, làm y sĩ trên một tàu hàng hải đã sửng sờ trước phong cảnh hùng vỉ và thơ mộng của Vịnh Nha Trang. Dưới ánh nắng mặt trời nhiệt đới, màu xanh của những dảy núi chập chùng trên đất liền, với các hòn đảo nhấp nhô trên sóng biển xanh, với bải cát trắng phau thấp thoáng xa xa. Chàng trai vội viết vào nhật ký "Rời Sài Gòn phải mất 28 tiếng đồng hồ mới đến Nha Trang tàu phải neo cách bờ một dậm, và chỉ đậu lại một giờ, vì thế không lên bờ được. Thật đáng tiếc vì vùng nầy có nhiều núi non và phong cảnh rất ngoạn mục”. Hai tháng rưởi sau, ngày 29/07/1891, khi chuyến tàu trở lại vùng này, chàng xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc. Phong cảnh quá hữu tình, với bờ biển, cửa sông, các đảo ngoài khơi màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, với khí hậu ôn hoà, đã chinh phục chàng trai. Chàng quyết định bỏ làm y sỉ trên tàu, và chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba. Chàng làm việc trên 50 năm tại thành phố biển này, và trước khi từ trần, ngày 01 tháng 3 năm 1943, đã trăn trối với người cọng sự thâm niên, Kỷ sư nông học Bùi Quang Chiêu của Viện Pasteur Nha Trang “hãy giữ tôi ở lại với Nha Trang, đừng cho ai lấy tôi đi. Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu”. Đó là Bác sỉ Alexandre Yersin, người đầu tiên đã mô tả vẻ đẹp của Vịnh Nha Trang, và ông đã hiến dâng cả cuộc đời ở quê hương này, nhờ đó thành phố Nha Trang mới có được nổi tiếng ngày hôm nay.
Cầu Đá cuối thập niên 1940s
Bến cảng Cầu Đá (1920, trước khi xây Cầu Đá)
Cám ơn các anh Trần-Đăng Nhơn và Trần-Đăng Lộc bổ túc và cho ý kiến.
Vì thiếu nhiều tài liệu chính xác, một số thời điểm và địa danh có thể sai lầm, mong các bậc uyên bác chỉ giáo.
Tài liệu chính tham khảo
1. Nguyễn Văn Huy (2005). Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam. www.thongluan.org ngày 27/02/2005.
2. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược.
3. Quách Tấn (1969). Xứ Trầm Hương. Sài Gòn: NHB Lá Bối.
4. Gabrielle M. Vassal (1912). Mes trois ans d’Annam. Paris: Hachette.
5. Nguyên Hương. Lịch sử Giáo Phận Nha Trang. http://www.gpnt.net/giaophan/lichsugpthem.htm
6. Trần Gia Phụng (2000). Quảng Nam Trong Lịch Sử, Toronto: Non Nước.
Reading (UK), 01 May 2006, viết thêm 9/2011.
Trần-Đăng Hồng