Thử tìm giải pháp thủy lợi cho ĐBCL - P 3
Thử tìm giải pháp thuỷ lợi cho đồng bằng Cửu Long
Phần 3. Bangladesh
Trần Đăng Hồng, PhD
Khái lược tổng quát về Bangladesh
Bangladesh là một tam-giác-châu nhận nước mưa nhiều nhất trên thế giới, góp 92 % nước mưa của ba lưu vực có tổng cộng diện tích 1.5 triệu km2 của ba sông chính là Brahmaputra, Ganges và Meghna của ba nước Bhutan, Ấn Độ và Nepal thuộc vùng Tây Tạng, chảy vào hạ lưu là Bangladesh, trước khi ra Vịnh Bengal. Sông Brahmaputra khi xáp nhập với sông
Qua hàng mấy ngàn năm, người dân sống cùng thiên nhiên, quen với bảo tố và lũ lụt hàng năm. Nông dân phát triển cả hàng ngàn giống lúa nổi (floating rice) thích ứng mùa ngập lụt sâu 5-6 m nước, và vào mùa khô thì canh tác giống lúa thấp giàng (lùn). Nhưng lụt lội nhiều khi xảy ra rất nhanh chóng, chỉ trong vài giờ làm giống lúa nổi cũng không tăng trưởng kịp nên bị ngập chết, còn vào mùa khô thì lại không có nước để canh tác, hậu quả là mất mùa liên miên.
Ngoài ra, nạn nhân mản rất trầm trọng, với dân số 153.5 triệu (2007) sống trên diện tích 144,000 km2, có mật độ cao nhất thế giới (1,045 dân/km2). Hầu hết dân sống trong đồng bằng và dọc vùng duyên hải, chiếm 80 % diện tích toàn quốc, bị ảnh hưởng ngập lụt và bảo tố hàng năm. 21 % GDP toàn quốc nhờ nông nghiệp. Năng xuất lúa là 8 tấn/ha/năm, gồm 2 đến 3 vụ lúa. GDP mỗi đầu người theo tiêu chuẩn PPP (Purchasing Power Parity) là 1,400 $US (hạng 153, 2007) (Vietnam 2,600 US$, 2007, hạng 129), 45 % dân số sống dưới mức nghèo đói (2007, dưới 1 $US/ngày), 57 % dân số mù chử.
Đồng bằng khá bằng phẳng, cao độ từ 0 đến 10 m trên mực nước biển, chỉ ở vùng đông nam mới có núi đồi. Chiều dài bờ biển 580 km.
Thiên tai xảy ra thường xuyên, gồm:
(i) Bảo nhiệt đới do nước Vịnh Bengal hâm nóng, xảy ra thường xuyên;
(ii) Nước biển dâng cao, nước mặn xâm nhập; rừng vùng đầm lầy Sundarbans tự nhiên chết vì nhiểm mặn toàn diện;
(iii) Lụt lội khủng khiếp xảy ra hàng năm, do mưa xảy ra tại chổ hay ở thượng nguồn, hay phốí hợp cả hai. Ngày nay, mưa lớn xảy ra thường xuyên, chẳng hạn trong năm 2005 chỉ trong một ngày mưa tới 352 mm.
Trận lụt thảm khốc năm 1987 là do mưa dử dội trên khắp lảnh thổ Bangladesh, đặc biệt ở vùng tây bắc làm nước sông Ganges chảy xiếc với 76,000 m3/s, sông Ganges không kịp thoát nước nên tràn bờ đê, cọng thêm mưa lớn tại chổ, làm trận lụt trầm trọng thêm, 40 % lảnh thổ bị lụt lớn.
Ngược lại, trận lụt năm 1988 không do mưa trên lảnh thổ Bangladesh, mà do mưa dử dội ở cao nguyên Meghalaya thuộc Ấn Độ làm nước sông Meghna và Brahmaputra tràn bờ với lưu lượng 98,600 m3/s, và nước sông Ganges với 72,300 m3/s, làm cả 62 % lảnh thổ, kể cả thủ dô Dhaka bị ngập lụt trầm trọng trong suốt 2 tuần. Một mảng đê trên bờ nam sông
Vịnh Bengal cũng là nơi tập trung bảo khủng khiếp thường xuyên. Tháng 10/1876, trận bảo với sóng triều cao 15 m tàn phá Bangladesh với khoảng 100,000 người chết; năm 1897 làm 150,000 người thiệt mạng, tháng 11/1970 với sóng triều 9 m gây 500,000 người chết, năm 1991 bảo giết hơn 130,000 dân, và mới đây, ngày 2/5/2008 bảo Nargis với vận tốc gió 192 km/giờ và mưa lũ tàn phá Miền Điện làm chết trên 80,000 người.
Hình trái: Tần số bảo lớn xảy ra trong mỗi 10 năm ở Vịnh
Công trình chống bảo lụt và dẩn thủy
Vào năm có khí hậu bình thường, 30 % diện tích
Từ mấy ngàn năm trước đây, địa chủ đã đắp đê bao quanh ruộng đất của mình, và có bộng dẩn và thoát nước, để điều chỉnh nước canh tác hoa màu. Vào mùa ngập lụt, tùy theo thủy triều mà điều hòa nước trong ruộng, khi cần cho nước vào ruộng mang theo phù sa, khi cho tháo nước ra theo nhu cầu canh tác. Tuy nhiên, cách giải quyết này chỉ trên phạm vi nhỏ, ở nơi lụt ít. Vì không có kế hoạch toàn bộ, các công trình đê nhỏ này gây nhiều mâu thuẩn tranh chấp trong xã hội.
Bangladesh đã có chương trình chống lũ lụt từ lâu đời nhưng chưa quy mô. Mải đến đầu thập niên 1960s, nhờ viện trợ tài chánh và kỷ thuật của thế giới, Bangladesh mới thiết lập hệ thống chống lũ lụt từ sông và từ biển với quy mô lớn.
Trận động đất 1950 tại bắc Bangladesh, Assam và vùng Hy mả Lạp Sơn làm thay đổi hướng chảy các dòng sông, đặc biệt sông Brahmaputra. Một phần ba thành phố Dibrugarh ở
Sau trận lụt thảm khốc 1988, thế giới viện trợ tài chánh và kỷ thuật để nghiên cứu chống lũ lụt cho
Pháp và cơ quan UNDP của Liên Hiệp Quốc hợp tác với chính phủ
Theo các kế hoạch này, bắt đầu bằng kế hoạch ngủ niên 1990-1995, các vùng bị lụt đe dọa được nghiên cứu kỷ lưởng lại, bờ đê dài 260 km hửu ngạn sông Brahmaputra được xây cao thêm thật kiên cố, đồng thời củng cố lại hệ thống đê điều đã có. Thiết lập 5 công trình kiểm soát dòng sông, mỗi công trình tốn khoảng 10 triệu
Theo các chuyên gia hàng đầu của thế giới từng thực hiện các dự án thủy lợi ở
Hệ thống cảnh báo lụt cũng được thiết lập, liên kết với các trạm thủy văn đầu nguồn ở Ấn Độ, theo dỏi mực nước và vủ lượng suốt từ thượng nguồn cho tới Vịnh Bengal. Hiện tại,
Cũng cần ghi ở đây dự án trị thủy toàn diện của UNDP và Pháp đề nghị sau trận lụt kinh hoàng 1988. Ba dòng sông Brahmaputra, Ganges và Meghna rất khổng lồ, nếu trang trải lượng nước đều thì
Theo đề án của Pháp, để tránh được trận lụt tương tự năm 1988 (chu kỳ xảy ra mỗi 10 năm), cần phải xây đê cao 4.5 m đến 7.5 m tùy địa phương, như vậy cần 400 triệu m3 đất, và mất khoảng 200,000 ha đất để xây đê, sẽ ảnh hưởng tới 180,000 dân cư di dời đến nơi khác. Mặt đê dùng làm đường giao thông. Các kỹ sư Pháp đề nghị xây dựng 2 hệ thống đê dọc theo sông, (i) hệ thống đê hiện hửu gần bờ sông hiện nay được củng cố lại, và (ii) thiết lập hệ thống đê chánh cao hơn, cách xa từ 2 đến 5 km. Hệ thống đê chánh thứ hai giúp ngăn được lụt tương tự lụt 1988. Thiết lập hệ thống 2 đê này tương tự hệ thống dọc sông Rhin của Hòa Lan (xem phần 1). Diện tích khoảng đất giữa 2 đê này khoảng 300,000 ha có thể canh tác với 5 triệu dân cư trú. Đề án này bị chỉ trích, vì tổn phí quá lớn, có thể mang nhiều tệ hại hơn lợi ích (như nền đất bị sụp, môi sinh bị phá hủy, bờ sông bị xói mòn trầm trọng hơn, ngư nghiệp bị tổn hại, v.v.), và Bangladesh cũng không có đủ đá để xây đê và các hệ thống chống lụt. Vì vậy, dự án của UNDP và Pháp không được quốc gia tài trợ nào hưởng ứng. Cuối cùng, các quốc gia tài trợ đồng ý kế hoạch nhiều ngủ niên, làm được tới đâu hay tới đó, như đã đề cập ở trên.
Hiện nay, Bangladesh có tổng cộng khoảng 13,000 km đê, gồm 9,000 km đê sông và 4,000 km đê biển, bảo vệ khoảng 30 % diện tích toàn quốc, cho khoảng 35 triệu dân (tổng số 135 triệu). Bangladesh đã xây dựng được 135 polders, từ vùng duyên hải cho tới sâu trong nội địa hàng trăm km, với tổng số diện tích 1.09 triệu ha, với khoảng 1,488 cống (sluices) điều chỉnh nước. Ngày nay, 90 % dân số vùng duyên hải sống trong các polders, 80 % sống nhờ nông nghiệp. Nhờ có đê biển và polders, thiệt hại do bảo tố trong thập niên qua được giảm thiểu, mặc dù tại vùng duyên hải, đất chỉ cao hơn mực nước biển từ 0 đến 2 m, trong khi sóng triều lúc bảo biển cao 6 m.
Ngược lại, ở bắc
Không ai chối cải lợi ích của hệ thống đê dọc biển, dọc sông, quanh các polders trong việc chống lũ lụt, bảo vệ dân và phát triển kinh tế của
(i) Các đê bằng đất thường bị phá vở, nên lụt vẫn xảy ra, nhất là trong thập niên qua, vì dòng chảy của sông trở nên khủng khiếp do nạn phá rừng ở thượng nguồn. Dân chúng sống bên trong đê có thể bị nguy hiểm thình lình khi đê bị vở.
(ii) Vùng đất thấp xa sông thiếu phù sa bồi đắp, trở nên nghèo nàn, nền đất lún sụp, trong khi nước biển dâng cao.
(iii) Môi sinh bị phá hủy, mà thế giới môi sinh quan tâm nhất là vùng rừng ngập mặn Sundarbans.
(iv) Nước trong các polders và thành phố có hệ thống đê bảo vệ bị ứ động do mưa tại chổ, do thẩm lậu, nên nguồn nước bị ô nhiểm vì phân cầu tiêu, gia súc, rác rến, v.v. Cây đa niên, vườn cây ăn trái trong các polders bị úng nước chết.
(v) Rất tốn kém để bảo trì đê điều hàng năm.
(vi) Cá không di chuyển từ sông vào đồng ruộng ngập lụt hàng năm như trước kia để sinh sản và lớn. Ngư nghiệp nội địa sút giảm.
(vi) Hệ thống đê điều hiện nay ngăn lụt được ở vùng này thì lại gia tăng hiểm họa lụt lớn hơn ở vùng khác.
(vii) Hệ thống đê dọc duyên hải làm lòng sông rạch bị cạn do lắng tụ phù sa, cản trở việc lưu thông.
(viii) Mâu thuẩn xả hội do quyền lợi giữa nông trại nuôi tôm (cần nước mặn) và người trồng lúa (cần nước ngọt).
(ix) Quan điểm của cộng đồng địa phương không được quan tâm khi hoạch định, nên ngày nay nhiều mâu thuẩn giữa dân và chính quyền xảy ra. Vì dân quá nghèo, không thể canh tác lúa cao sản cần nhiều phân bón và thuốc diệt sâu bọ, nên một số nông dân phá đê tái tạo lụt như trước kia để canh tác lúa nổi, mặc dầu năng xuất kém hơn (nhưng lợi hơn). Ngày nay, một số polders được tái thiết lại với hệ thống cống dẩn và thoát nước để điều chỉnh mực nước bên trong polder, dựa theo nhịp điệu thủy triều, tùy theo nhu cầu canh tác của người dân.
Ngày nay,
Cuộc tranh đấu với thiên nhiên vẫn tiếp tục và sẽ không bao giờ chấm dứt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
New Scientist (1989), issue 1693, 02 December 1989.
http://www.srwolf.com/wolfsoc/articlearchives/2007/06/bangladesh_at_the_mercy_of_cli.html
Technical Support Unit, World Meteorological Organization and Global Wate Partnership (2003).
Tutu, A-U-A. (2005). River management in
Khalequzzaman, M. (). Flood Control in
Practices.
Wiebe, H. Flood action Plan in
Weste, P. and Bron, J. Water management in flood control and drainage systems in
Hossain, M.Z. and
Reading (
Trần Đăng Hồng
Phần 4: Kinh nghiệm châu thổ sông Hồng