Những chuyện ma có thật
05/3/2025
Ngoài ra, tôi có nuôi một con chó khá to con, rất khôn. Mỗi khi tôi ra vườn tôi gọi nó đi theo, bắt nó chạy trước để xua đuổi rắn nếu có, vì vườn có nhiều ổ mối lớn có hang rắn vì thấy da rắn lột. Ban đêm, con chó nằm dưới chân giường tôi.
NHỮNG CHUYỆN MA CÓ THẬT
Trần-Đăng Hồng, PhD
Tôi xin kể lại những chuyện ma tôi đã chứng kiến mà nạn nhân chính là vợ tôi. Sau đây là 2 chuyện thật.
1. Ma nhát ở Nông Trại năm 1971.
Khoảng 1970, tôi quản lý một vườn cây, rộng hơn 1 mẩu tây, trong đó trồng toàn cây ít giá trị thương mại, như mận và chuối.
Sở dỉ tôi được xử dụng vườn cây này là vì tôi quen một ông Thiếu Tá bộ binh trong quân đội VNCH. Đây là thời kỳ chiến tranh cao điểm, Cộng Sản Miền Bắc đem toàn lực lượng xăm lăng Miền Nam với chiêu bài ‘’Giải Phóng Miền Nam’’, cùng với du kích nằm vùng mang danh ‘’Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’’, vì vậy Ông thường đi hành quân liên miên nơi chiến trường xa xôi trong 4 vùng chiến thuật. Vợ ông ở nhà đơn chiếc, không đủ thời giờ và khả năng chăm sóc vườn cây. Chính vì vậy, họ nhờ tôi quản lý vườn cây này, vì biết tôi là Kỷ sư Canh Nông làm việc ở Đại Học Cần Thơ, đối diện khu vườn này.
Khu vườn này, đối diện Đài Phát Thanh kế bên Đại Học Cần Thơ, nằm tận cùng của một ngỏ hẻm dài khoảng 100m, được lát xi măng chỉ vừa đủ một chiếc xe đạp. Song song với đường tráng xi măng là một rạch nước dơ bẩn, và bên kia con rạch là nhà dân lao động, mái lá hay tôn, rất nghèo nàn. Tận cùng ngỏ hẻm, bên trái là trại nuôi heo tư nhân của ông Trưởng Ty Thú Y Chăn Nuôi Cần Thơ. Đối diện trại heo lả nhà của Đại Úy Tam, ông bị thương tật ở chân, phải chống nạn khi đi, nên được giải ngủ. Vợ ông rất đẹp, cùng đứa con gái khoảng 8 tuổi rất dễ thương. Đây là gia đình rất thân với chúng tôi.
Cuối ngỏ hẻm là một rạch nước chảy thẳng góc, rộng khoảng 3 m, tôi dùng 2 tấm vĩ sắt nhà binh ghép lại thành chiếc cầu, để tôi chạy chiếc Lambretta 150 phân khối được an toàn.
Qua cầu là một dãi đất rộng khoảng 15 m, đủ để cất một nhà tôn có chiều ngang 5 m, và dài khoảng 15 m, chúng tôi gọi là ‘’nông trại’’. Nông trại được ngăn hai, một ngăn dài 10 m tôi cho các sinh viên ở, ngăn 5 m là dành cho tôi.
Sau căn nhà nông trại là một ao rất lớn và sâu.
Bên cạnh nhà nông trại có một cây mít khá lớn, cành lá sum sê, tạo bóng mát, tôi cất một chòi tranh, có các khúc gỗ to để làm ghế ngồi, và một cái võng đong đưa, xế trưa ngồi hóng gió rất thoải mái.
Các sinh viên tôi cho trú ngụ gồm Đặng Vĩnh Quãng (gốc Qui Nhơn Bình Định, đã mất ở Úc), Lê Quan An (Em Lê Quan Hồng, Trường NLS Cần Thơ, đã mất vì bệnh sốt rét), Võ Đình Bình (cha mẹ ở Sài Gòn, gốc Quãng Ngãi, đã mất), Nguyễn Ngọc Sáng (hiện ở Sài Gòn), Đỗ Quốc Tấn (hiện ở Sài Gòn), hai sinh viên này đều là cháu gọi tôi bằng cậu. Các sinh viên này tôi rất thương mến như ruột thịt. Ngoài ra, có rất nhiều sinh viên đến chơi hàng ngày, cho tới khuya, rất vui vẻ, nhộn nhịp.
Vì vườn bỏ hoang nhiều năm, cỏ mọc um tùm, nên tôi mướn một cặp vợ chồng ông bà Sách đến giúp việc, cắt cỏ, dọn dẹp vườn và nấu ăn cho số sinh viên nói trên và tôi.
Ngoài ra, tôi có nuôi một con chó khá to con, rất khôn. Mỗi khi tôi ra vườn tôi gọi nó đi theo, bắt nó chạy trước để xua đuổi rắn nếu có, vì vườn có nhiều ổ mối lớn có hang rắn vì thấy da rắn lột. Ban đêm, con chó nằm dưới chân giường tôi.
Năm 1971, tôi cưới vợ. Kim-Thu về ở Nông trại với tôi. Đây là thời kỳ rất hạnh phúc và lãng mạn, tuy sống nghèo nàn trong ngôi nhà tôn vách lá. Ngày ngày, ngoài giờ làm việc, tôi giảng dạy sinh viên, Kim-Thu làm trong phòng học vụ trường ĐH Nông Nghiệp, chúng tôi đi dạo trong vườn cùng con chó, trưa đong đưa trên chiếc võng, nghe nhạc thu thanh từ chiếc máy Akai, v.v.
Thời gian sống êm ả như vậy dài chừng vài tuần, thì ma bắt đầu xuất hiện. Cứ đúng khoảng nửa đêm, thì Kim-Thu la hoảng lên, tôi và nhóm sinh viên thức dậy, trong lúc nghe con chó nhe răng gầm gừ như thấy có kẻ lạ. Kim Thu mặt mày tái mét, nói thấy ma đứng sát bên giường, nhìn qua mùng rồi kéo chân. Thế là tôi để đèn điện và thức canh cho vợ ngủ tới sáng.
Và cứ vài ba hôm, ma tới nhát Kim-Thu như vậy. Bây giờ, anh chị Tam mới thố lộ cho chúng tôi biết là khu vườn này lắm ma. Khi thấy chúng tôi dọn vào ở, anh chị ái ngại nhưng không dám nói. Anh chị cho biết là vào dịp Tết Mậu Thân, Việt Cộng từ vùng mật khu ở đâu đó, về tập trung trong khu vườn này để tấn công vào Đài Phát Thanh, mục đích chiếm đài này để tuyên truyền chiến thắng. Không ngờ, Đài Truyền Thanh được phòng vệ quá an toàn, nên số Việt Cộng chết trong ngôi vườn này lên tới vài chục mạng, và được chôn vùi ngay trong ngôi vườn này.
Sau nhiều tuần sống trong khủng hoảng, và khi biết sự kiện, tôi quyết định giái tán nông trại. Chúng tôi trở về nhà cha mẹ vợ để sống an toàn, còn số sinh viên cũng trở về Đại Học sống cảnh ăn cơm tháng ở các nhà dân chung quanh Đại Học.
2. Ma nhát ở khách sạn cổ kính tại Brussels, nước Bỉ (Belgium).
Vào khoảng tháng 5 năm 2012, chúng tôi đi du lịch bằng xe lửa. Từ London, chúng tôi dùng xe lửa chạy qua đường hầm dưới biển Manche chạy suốt tới Đức (Germany). Sau 4 ngày ở Đức, chúng tôi về Hòa Lan (Hollande, Netherlands) ở 4 ngày, sau đó đến Brussels, Bỉ (Belgium) ở 4 ngày, rồi về lại England, không đi du lịch Pháp, vì chúng tôi đi Pháp quá nhiều rồi. Ở mỗi nơi, qua internet tôi chọn hotels và trả trước tiền phòng qua visa card. Cũng vậy, khi đến Brussels, thủ đô của nước Bỉ (Belgium), tôi chọn hotel trú ngụ và trả tiền trước.
Vì Brussels, thủ đô của Bỉ, cũng là thủ đô của EU (European Union) gồm 27 quốc gia thành viên của Âu Châu, với hàng chục triệu du khách đến du lịch, nhất là trong dịp nghỉ hè, nên rất đắc đỏ và ít khi có phòng trống. Vì vậy, chúng tôi chọn vùng ngoại ô, cách trung tâm thành phố chừng 4 km, nơi có hệ thống xe lửa thuận tiện, cứ mỗi 10 phút là có một chuyến xe (Hình 1).

Hình 1. Khu vực ngoại ô Brussels, có đường xe xe lửa đi đến thủ đô Brussels và chiều ngược lại. Cứ mỗi 10 phút là có một chuyến xe, rất tiện lợi.Trạm dừng (train stop) là nơi có thiếu nữ mang túi xách đỏ đứng chờ. Khách sạn cổ kính chúng tôi trú ngụ là phía sau trạm dừng, nơi có chiếc xe hơi.
Khách sạn chúng tôi ở nằm trong khu phố rất cổ kính, có lẻ trên 100 tuổi. Bởi vì người Âu Châu rất tồn cổ, nên họ bảo tồn và trân quý những gì cổ kính. Khách sạn tôi trú ngụ qua đêm không ngoài tính chất đó (Hình 2).
Trong phòng, có một đàn Piano rất cổ, hình treo, chai lọ, Tivi, v.v. đều đồ cổ.
Trong phòng, có một đàn Piano rất cổ, hình treo, chai lọ, Tivi, v.v. đều đồ cổ.

Hình 2. Đây là căn phòng chúng tôi tạm trú đêm. Để ý là bên trái có một đàn Piano rất cổ. Ở giữa là lò sưởi đốt than cổ kính (Không xử dụng, chỉ trình diễn). Bên mặt là TV, dưới là dàn nghe nhạc video cổ lổ sĩ ngày xưa.

Hình 3. Đây là giường ngủ của chúng tôi. Trên giường là xách tay của Kim-Thu. Bên mặt là hệ thống sưởi Central heating (hiện đại).

Hình 4. Đây là phòng chúng tôi tạm trú ban đêm ở tầng 2. Để ý là cánh cửa mở ra lan can, nhìn thấy hàng cây và trạm xe xe lủa bên dưới. Vì mùa hè nóng bức, chúng tôi mở cửa cho có gió mát.
Khi vừa bước vào phòng, chúng tôi có cảm giác lành lạnh xương sống, như có ám khí, nhưng không ai nói ra. Thấy có chiếc Piano, Kim-Thu bèn ngồi xuống ghế và bấm vài nốt đàn cho vui.
Vì quá mệt mỏi vì đường dài từ Amsterdam đến nơi này, chúng tôi ngủ sớm, dành sức sáng sớm mai đi xe lửa ra trung tâm thành phố Brussels. Trời oi bức của mùa hè, nên chúng tôi mở cửa ra lan can để đón gió mát, nhưng trời lặng gió. Thỉnh thoảng trong giấc ngủ, tôi có cảm giác như có ai ngồi bên đàn Piano. Nhưng tôi không quan tâm, vì tôi gan dạ, không sợ ma. Bỗng khoảng nửa đêm, Kim-Thu la thất thanh, ôm ghì lấy tôi. Tôi hốt hoảng mở mắt thì thấy một bóng trắng chạy ra cửa, cuống theo một luồng gió làm tung bay màng cửa. Kim-Thu bấy giờ mới nói cho tôi biết là một người đàn bà ngồi ở đàn Piano, nhìn chòng chọc vào chúng tôi, rồi thình lình nhảy tới kéo chân Kim-Thu, và khi Kim-Thu hốt hoảng la lên thì bà ta chạy ra phía cửa lan can.
Thế là chúng tôi mở đèn sáng trưng và thức tới sáng, không dám ngủ lại.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi trả phòng và ra trung tâm thành phố tìm khách sạn khác mặc dù tốn kém bao nhiêu cũng được.
Reading, 05/3/2025
Trần-Đăng Hồng